Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011

Cám ơn Thủ Tướng

Nhiệm kỳ thứ hai của Thủ Tướng hình như cũng giống như năm thứ hai của Mourinho, có nhiều cái làm phấn khởi con dân. Hy vọng Thủ Tướng giúp

Bị cô lập ở Bali về biển Đông, Trung Quốc sẽ thế nào?

Trước thềm hội nghị Bali, Trung Quốc nói không cần đưa vấn đề biển Đông ra bàn và huy động mạng lưới ngoại giao rầm rộ thúc ép việc này cũng như loan tin khắp thế giới ý định không để bất cứ sự minh định nào của quốc tế với tự do đi lại ở biển Đông. Ý đồ đó hoàn toàn bị phá sản khi có đến 17 lãnh đạo khác tại hội nghị thượng đỉnh Đông Á ở Bali, Indonesia đưa vấn đề này ra nói với thủ tướng Trung Hoa, Ôn Gia Bảo.

 19th ASEAN Summit 2011 3 19th ASEAN Summit 2011,Nusa Dua Convention Centre,Bali

Lợi ích cốt lõi của Trung Quốc bị đe doạ, nhưng thủ tướng Ôn Gia Bảo có thái độ mềm mỏng trước sức ép quốc tế. Nguyên nhân không phải vì có sự hiện diện của siêu cường Mỹ với gương mặt Obama mà dường như Trung Quốc không chọn con đường đối đầu tại các diễn đàn quốc tế mỗi khi phép thử đơn phương tuyên bố không bàn biển đông ở Bali bị thất bại.

Giống như các hội nghị trước đây của khối ASEAN, như Sangri-La, đại diện cấp cao Trung Quốc thường tỏ ra hợp tác trước bàn đàm phán.Tuy nhiên, thông điệp ấy sau này người ta mới vỡ lẽ, khi hội nghị kết thúc, người Trung Quốc lại cho phát ngôn mạnh mẽ trước truyền thông thế giới về quyền lợi của họ ở biển Đông là 85%, các nước còn lại bị đường lưỡi bò chèn ép tức tối, sng song đó là tàu bè qua lại đây bị hải giám quấy rầy.

Trung Quốc không bao giờ buông bỏ những gì thuộc về lợi ích cốt lõi. Nhưng có lẽ, vì đuối lý và các chứng cứ không thuyết phục, cũng như những giải thích không minh bạch mà Trung Hoa không thể nêu vấn đề biển Đông ra bàn một cách sáng suốt tại các diễn đàn đa phương. Quan sát trên truyền thông về biển Đông trong hội nghị Bali, Trung Quốc hoàn toàn bị cô lập bởi quan điểm ấu trĩ và tham lam, khối ASEAN ngoài mục đích chính thống lợi ích khối còn lợi ích quốc gia mỗi nước thì còn xúc tác cảm hứng từ quan điểm tự do hàng hải mà Hoa Kỳ và các siêu cường khác mặc định như một sáng tạo về quyền căn bản của con người trong biển cả của Thái Bình Dương. Và sự thật, Trung Hoa bị cô lập trong một hình thế không có tiếng nói chung nào đủ tự tin.

Nước cờ ngoại giao trước hội nghị Bali hoàn toàn phá sản, Trung Quốc thất bại ê chề khi tuyên bố của họ bị phản bác bằng các quan điểm nghiêm túc. Câu hỏi đặt ra, sau hội nghị Bali, Trung Quốc sẽ hành xử như thế nào?

Một luồng dư luận cho rằng, Trung Hoa vẫn cử tàu hải giám xuống vùng đánh bắt truyền thống của ngư dân Việt Nam để quấy phá, áp lực lên với các nước có sở hữu biển Đông, gia tăng các yêu sách hoặc tuyên bố với Philippines quyền lợi Trung Quốc vùng đất 80 cây số vuôngg cách tỉnh Palawan 79km. Sẽ có những cuộc bắt bớ tàu đánh cá ngư dân như cách thức trả thù các đòn thua ở nhiều diễn đàn hội nghị trước đây. Và để giải thích các câu chuyện đó, chính quyền Trung ương Trung Quốc không vào cuộc mà là từ các cấp tỉnh cử tàu hải giám đi.

Cơn thinh nộ của Trung Hoa trước việc hội nghị Bali bàn về biển Đông một cách rõ ràng sẽ được trình diễn vào tương lai sắp tới.

Vậy thì cần làm gì để chuẩn bị ứng phó với cách hành xử này? Bởi thực tiễn đánh bắt trên biển không phải là bàn hội nghị, mà đó là thự tế của lòng tham, của sự vô độ độc chiểm. Cần một liên kết thích đáng, và khuyến cáo đúng đắn với ngư dân, cũng như bảo vệ tuyệt đối lãnh hải đất nước để hội nghị Bali không phải là hội nghị vô ích với biển Đông.
- Theo blog Cu Làng Cát

Đuổi chó

Một đoạn video clip dài 3 phút 44 giây ghi lại cảnh một con tàu của Việt Nam đuổi tàu hải giám của Trung Quốc được tung lên trang youtube hôm 6 tháng 11, mà người ta không rõ nó được quay vào khi nào và ở địa điểm nào trên biển Đông.
Nội dung của đoạn phim không cho biết chiếc tàu của Việt Nam thuộc lực lượng nào, hải quân hay cảnh sát biển, và trên tàu không thấy trang bị vũ khí. Nhưng tàu Trung Quốc thì thấy rất rõ hàng chữ 'China Marine Surveillance', tức tàu hải giám Trung Quốc.
Trong đoạn phim, có thể nghe rất rõ tiếng người Việt Nam trên con tàu mà người quay phim đứng, có vẻ đoạn phim được quay bằng điện thoại di động.
Có thể nghe được tiếng người trên tàu Việt Nam ra lệnh 'bám chắc vào", 'mặc quần áo vào'... khi hai tàu đuổi nhau và mạn trái tàu Việt Nam áp sát vào mạn bên phải của tàu hải giám Trung Quốc rồi đụng nhau một cú thật mạnh vào lúc 1 phút 47 giây trong đoạn phim.
Sau khi đụng nhau, hai chiếc tàu cùng rồ máy, kè nhau trong khoảng 2 phút nữa. Có thể thấy mạn bên phải của tàu Trung Quốc trầy từng vết lớn.

-----------------------------------------------------------------------------------------------

Vào sáng thứ Hai ở Việt Nam 07-11-2011, tức buổi chiều Chủ Nhật tại Hoa Kỳ, một chiếc Tàu Tuần Dương của Hải Quân Việt Nam đã rượt một chiếc Tàu Hải Giám (China Maritime Surveillance -- CMS) của Trung Quốc và đã đụng thẳng vào hông phải gần phía đầu của Tàu Hải Giám Trung Quốc. Cuộc rượt đuổi và đụng thẳng vào Tàu Hải Giám Trung Quốc đã được phía Hải Quân Việt Nam quay phim dài 6 phút 09 giây và chuyển lên Internet dưới tiêu đề là "Đuổi Chó".


Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2011

Nếu khai chiến trên biển Đông, khả năng Trung Quốc sẽ thua Việt Nam

Một số tờ báo của Hồng Kông gần đây như “Đại công báo”, “Văn Hối”, “Đông phương” và nguyệt san “Phòng vệ Hán Hoà” dẫn lời các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh cho rằng tuy từ đầu năm 2009 đến nay, các bước chuẩn bị đấu tranh quân sự của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp chủ quyền biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Hoa Nam) vô cùng rầm rộ.
Thế nhưng trong bối cảnh hiện nay, còn rất nhiều rào cản khiến Trung Quốc chưa thể áp dụng hành động quân sự thực tế trong tranh chấp chủ quyền biển Đông. Các chuyên gia quân sự Trung Quốc cũng cảnh báo nếu Bắc Kinh Trung áp dụng hành động quân sự, cái giá phải trả sẽ rất đắt, thậm chí ảnh hưởng quốc tế tiêu cực của hành động này đối với Trung Quốc còn lớn hơn cả phát động một cuộc chiến tranh tại Eo biển Đài Loan.
Dưới đây là tổng hợp nội dung cơ bản của các bài viết này.
1. Rào cản chính trị:

- Tại khu vực Biển Đông, hiện nay có ba nước tồn tại bất đồng lớn nhất với Trung Quốc về lãnh hải và hải đảo là Việt Nam, Philippin và Malaixia, trong đó Việt Nam là hàng đầu. Vì thế, khả năng bùng nổ xung đột quân sự tại khu vực biển Đông chỉ có thể là Trung Quốc tấn công quân sự chiếm các đảo, bãi mà Việt Nam đang kiểm soát tại quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọil à Nam Sa). Còn khả năng Trung Quốc và Malaixia nổ ra xung đột quân sự do tranh chấp đảo Layan Layan (đá Hoa Lau) trong tương lai gần, cơ bản bằng không. Thế nhưng, vấn đề quan trọng là Trung Quốc áp dụng hành động quân sự quy mô lớn với Việt Nam, thế tất sẽ thiêu huỷ hoàn toàn hình tượng quốc tế “hoà bình phát triển” mà Trung Quốc tạo dựng trong gần 20 năm qua. Hệ quả là sự cảnh giác của Ôxtrâylia, Mỹ, Nhật Bản và cả Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) đối với Trung Quốc sẽ tăng cao.
- Gần đây, hợp tác và trao đổi quân sự giữa Mỹ với ASEAN và Việt Nam đã có những bước tiến lớn, một khi Trung Quốc áp dụng hành động quân sự, dư luận và báo chí chính thức của Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước phương Tây khác sẽ đứng về phía Việt Nam. Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản thậm chí còn cung cấp cho Việt Nam chi viện về tình báo và hậu cần quân sự cho Việt Nam . Bên cạnh đó, “Học thuyết quân sự mới” của Ôxtrâylia cho rằng biển Đông chính là “biên cương lợi ích” của Ôxtrâylia sẽ có cớ phát triển.
- Một khi chiến tranh bùng nổ, sẽ thúc đẩy nhanh hơn sự thành lập chính thức của tập đoàn “NATO biển Đông”, bước đi Nam tiến của Lực lượng Tự vệ trên biển của Nhật Bản cũng sẽ trở thành hiện thực và tạo ra căn cứ hợp pháp để Mỹ can thiệp quân sự trực tiếp. Hơn thế, tại khu vực này, tồn tại “Hiệp ước đồng minh Mỹ – Xinhgapo – Ôxtrâylia” và từ sau năm 1995, Mỹ cùng với 6 nước ASEAN là Philippin, Thái Lan, Xinhgapo, Malaixia, Inđônêxia và Bruney tổ chức cuộc diễn tập quân sự hàng năm mang tên “Karat”, được mệnh danh là “Tập đoàn Karat” và trên thực tế đã trở thành quan hệ “chuẩn đồng minh”.
- Quần đảo Trường Sa hiện nay, có một số đảo nằm sát bờ biển Malaixia, có một số đảo gần đường trung tuyến Việt Nam – Malaixia, cách Trung Quốc xa như vậy, nói là của Trung Quốc thật khó có sức thuyết phục. Do vậy, khi Trung Quốc áp dụng hành động quân sự, hình tượng quốc tế của các nước hữu quan, nhất là Việt Nam sẽ tốt hơn nhiều so với Trung Quốc, theo đó các nước lớn châu Âu, thậm chí cả Mỹ và Ấn Độ sẽ cùng đưa ra đề nghị cung cấp vũ khí cho Việt Nam, khiến cho nhân tố thiên thời và nhân hòa là bất lợi đối với Trung Quốc.
2. Rào cản về quân sự

- Các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh nêu rõ nhìn bề ngoài, so sánh sức mạnh quân sự giữa Trung Quốc với Việt Nam, phía Trung Quốc có vũ khí hiện đại mang tính áp đảo, nhất là ưu thế về số lượng và chất lượng tàu mặt nước, tàu ngầm cỡ lớn. Thế nhưng, phân tích sâu về học thuyết địa – quân sự, thực sự bùng nổ chiến tranh trên không và trên biển với Việt Nam , ưu thế sức mạnh quân sự không hẳn nghiêng về Trung Quốc. Bởi vì đặc điểm mới của chiến tranh kỹ thuật công nghệ cao với vũ khí tên lửa là không có khái niệm so sánh sức mạnh của nước mạnh, nước yếu. Theo đó, nước yếu có một số ít tên lửa hiện đại, trong chiến tranh trên biển và trên không, vẫn có thể dựa vào ưu thế thiên thời, địa lợi, nhân hòa v.v.
- So sánh cụ thể hơn, về hải quân và không quân của Trung Quốc tham gia cuộc chiến tranh này sẽ chủ yếu là Hạm đội Nam Hải (Bộ Tư lệnh đặt tại Trạm Giang, Quảng Châu). Còn Việt Nam lực lượng không quân được trang máy bay chiến đấu “Su- 30MKV” và “Su- 27SK/UBK”. Hải quân Việt Nam được trang tàu tên lửa tốc độ cao “ Molniya- 12418 ” và tới đây có cả tàu ngầm “KILO- 636”. Như vậy, xu thế so sánh sức mạnh tại biển Đông đang phát triển theo hướng bất lợi cho Trung Quốc.
- Trong tương lai gần, khi Hải quân Việt Nam đưa tàu ngầm “KILO- 636” vào sử dụng, quyền kiểm soát cục bộ dưới nước có thể sẽ nghiêng về phía Hải quân Việt Nam. Ngoài ra, Trung Quốc phải tính đến nhân tố máy bay chiến đấu “Su- 30MKV” của không quân Việt Nam có thể sẽ được trang bị tên lửa siêu âm không đối hạm “BRAHMOS” (của Ấn Độ) và “YAKHONT” (của Nga) với tầm bắn đạt 300 km.
- Về năng lực phòng không, Trung Quốc và Việt Nam đều được trang bị tên lửa đất đối không hiện đại “S- 300PMU1”. Lực lượng phòng không của Việt Nam có 2 tiểu đoàn, còn con số này của Trung Quốc là 20. Thế nhưng, lực lượng này (của Trung Quốc) chủ yếu bố trí trên đất liền, do vậy vai trò có thể phát huy trong chiến tranh trên biển và không phận trên biển khá hạn chế.
3. Rào cản về địa lý

- Toàn bộ 29 đảo, bãi mà Việt Nam kiểm soát hiện nay tại Trường Sa, cách đất liền từ 400 – 600 km. Tại khu vực này, Việt Nam có các căn cứ không quân tại vịnh Cam Ranh (Nha Trang), Đà Lạt (Lâm Đồng) và ở Thành phố Hồ Chí Minh, đa số không phận tại khu vực tranh chấp này đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay tấn công “Su- 22” của không quân Việt Nam, chưa kể đến máy bay chiến đấu “Su- 30MKV” và “Su- 27SK” với bán kính tác chiến lên đến 1.500 km. Từ đó cho thấy cả Trung Quốc và Việt Nam đều có đủ năng lực tấn công tầm xa đối với các căn cứ hải quân tung thâm của đối phương.
- Việt Nam đã xây dựng sân bay tại đảo Trường Sa. Nếu so sánh, không quân Trung Quốc kể cả cất cánh từ sân bay tại đảo Hải Nam, khoảng cách đường thẳng đối với 29 đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát đã lên đến từ 1.200 – 1.300 km, còn cất cánh từ khu vực quần đảo Hoàng Sa, khoảng cách đến Trường Sa cũng lên đến từ 900 – 1.000 km… Điều này buộc máy bay chiến đấu “J- 10” và “J- 8D” và cả “Su- 30MKK” và “Su- 27SK” của Không quân Trung Quốc đều cần được tiếp dầu trên không mới có thể tham chiến. Tuy vậy, thời gian tác chiến trên vùng trời biển Đông so với máy bay chiến đấu cùng loại của không quân Việt Nam cũng ngắn hơn khoảng 50%.
- Khi chiến tranh bùng nổ, sân bay trên đảo Vĩnh Hưng (Hoàng Sa) và thậm chí cả sân bay trên đảo Hải Nam của không quân Trung Quốc nhiều khả năng trước tiên sẽ bị máy bay chiến đấu “Su- 22” của không quân Việt Nam thực hiện tấn công phủ đầu. Căn cứ Toại Khê, Căn cứ Quế Lâm (Quảng Tây) của Sư đoàn không quân số 2 cũng nằm trong phạm vi bán kính tác chiến tấn công của máy bay chiến đấu “Su- 30MKV” của Không quân Việt Nam . Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng khác là xung đột không chỉ hạn chế ở khu vực biển Đông, toàn bộ các mục tiêu chiến lược tại đảo Hải Nam, Hồng Kông, Côn Minh (Vân Nam) và Nam Ninh (Quảng Tây) đều nằm trong phạm vi bán kính tác chiến của máy bay chiến đấu “Su- 30MKV” của Không quân Việt Nam.
- Địa hình lãnh thổ của Việt Nam dài hẹp, máy bay “Su- 27SK” và “J- 10A” của Trung Quốc, sau khi tham chiến, trên đường bay trở về căn cứ tại đảo Hải Nam hay căn cứ Toại Khê, Quế Lâm (Quảng Tây), đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay chiến đấu “MiG- 21Bis” của Không quân Việt Nam cất cánh từ các căn cứ không quân miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Do vậy, MiG- 21Bis của Việt Nam có thể cất cánh đánh chặn máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã hết vũ khí và thiếu nhiên liệu vào bất cứ lúc nào.
4. Rào cản về chiến thuật

- Máy bay chiến đấu “Su- 22” của không quân Việt Nam có thể sẽ áp dụng chiến thuật không kích siêu thấp và có được sự yểm hộ hoả lực trong tấn công đảo, bãi. Vì thế, ngay cả khi Trung Quốc chiếm lĩnh được các đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát hiện nay, bảo vệ lâu dài là vấn đề cực kỳ khó khăn. Ngoài ra, Không quân Việt Nam áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp, sẽ tránh được sự theo dõi của các loại rada trên tàu mặt nước của Trung Quốc và trực tiếp tấn công các tàu mặt nước cỡ lớn của hải quân Trung Quốc.
- Hải quân Việt Nam không có tàu mặt nước cỡ lớn, cho nên không ngại Trung Quốc áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp. Hơn thế, như vậy còn khiến cho tàu ngầm hiện đại của Trung Quốc không thể phát huy sức mạnh, chỉ có thể tấn công tàu vận tải của hải quân Việt Nam
Nhưng phán đoán từ loại tàu đổ bộ từ đất liền tiến ra đảo, bãi quần đảo Trường Sa của Việt Nam hiện nay, đa số là tàu vận tải cỡ nhỏ lớp từ 300 – 500 tấn trở xuống, hơn thế phần nhiều là được đóng bằng gỗ, cho nên điều động tàu ngầm hiện đại để tiêu diệt là không cần thiết./.


Người Mẹ Điên


Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người. Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.

Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.
Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói: "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!". Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con.
************************************************** **************
Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên: "Đưa, đưa tôi..." bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi: "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao mà phát hiện mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!". Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm.
Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Đặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.
Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo: "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?". Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã trong miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán: "Đừng... đừng...". Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét: "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?". Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại.
************************************************** ***********************
Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài. Bà nội quay đầu đi, nuốt những nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói: "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!". Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi: "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!". Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí.

Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa lại.

Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới phát hiện, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi: "Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi." Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống không?

Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang.
Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo: "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!" Tôi mừng quá đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu. Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo: "Thụ... bóng... bóng...". Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào lòng tôi với vẻ nịnh nọt. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to: "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!"
************************************************** ***********************
Tôi tức tối đáp lại nó: "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!" Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.
Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng.
Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn.
Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn". Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa: "Con mẹ điên lúa và cỏ mà không phân biệt được..." Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi: "Đánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..."
************************************************** ***********************
Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Đừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo: "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...". Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo: "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!" Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật, là bà. Bà trừng mắt bảo tôi: "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Đấy là mẹ mày đấy!" Tôi vùng vằng bĩu môi: "Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!"
"A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!" Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: "Đánh tôi, đánh tôi!"

Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm: "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!". Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa.
Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...". Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Phạm Gia Hỷ cầm đầu trêu chọc. Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị Phạm Gia Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ Phạm Gia Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.
Mẹ vì tôi gây ra đại hoạ, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt. Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn. Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về. Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín. Đây là những người do nhà Phạm Gia Hỷ nhờ tới, bố Phạm hung hãn chỉ vào cha tôi nói: "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, mẹ mày tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra."
Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà họ Phạm, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu. Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngănbàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Đám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết. "Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành hoạ đấy thôi!". Cha lại nhìn tôi nói: "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!". Tôi gật đầu, tôi hiểu.
************************************************** ***********************
Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.
Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.
27/4/2003, lại là một chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: "Ngọt quá, ở đâu ra?" Mẹ nói: "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì.
Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói: "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!" Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi: "Mẹ mày có nói gì không?" Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:" Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!" Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Đường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói: "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!" Tôi nói: "Thím, thím đừng doạ cháu...". Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi...
Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi: "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..." Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.
************************************************** ***********************
Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Đại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi. Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ: "Mẹ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? Mẹ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!"

Vương Hằng Tích

(Trang Hạ dịch)

Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011

Hỏi thế gian tình là gì?

Vấn thế gian
Tình thị hà vật
Trực giáo sinh tử tương hứa.
Thiên Nam địa Bắc song phi khách
Lão sí kỷ hồi hàn thử.
Hoan lạc thú
Ly biệt khổ
Tựu trung cánh hữu si nhi nữ.
Quân ứng hữu ngữ
Điểu vạn lý tằng vân.
Thiên sơn mộ tuyết
Chích ảnh hướng thùy khứ

Hỏi thế gian, tình gì?
Mà gắn bó chẳng nề sinh tử?
Chắp cánh bay trời nam đất bắc
Ấm lạnh bao phen cánh rũ
Khi hoan lạc vui vầy
Lúc chia ly đau khổ
Đắm đuối tình si nhi nữ
Lời người nói ra
Đã xa tít trên tầng mây vạn dặm
Ngàn non chiều tuyết phủ
Chiếc bóng hướng về ai?

(trích đoạn Thần Điêu Hiệp Lữ - Kim Dung)

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2011

Hưởng lạc

GIÓ TRĂNG
 
Tiếc rằng trăng non mau lặn mà trăng khuyết (hạ tuần) chậm lên.

Dưới trăng nghe tiếng tụng kinh (hay chuông chùa) thì cái thú càng sâu xa; dưới trăng mà bàn về kiếm thuật thì can đảm càng tăng; dưới trăng mà bàn về thi thơ thì phong thái càng tĩnh; dưới trăng mà đối diện mĩ nhân thì tình ý càng nồng.

Phép ngắm trăng: trăng tỏ nên ngửng nhìn, trăng mờ nên cúi nhìn.

Gió xuân như rượu, gió hè như trà, gió thu như khói, gió đông như gừng, cải (cay: ý nói buốt).

THÚ NHÀN VÀ BẠN BÈ

Trong thiên hạ, được một tri kỉ, có thể không ân hận rồi.

Người ta cho là bận rộn thì mình coi là thảnh thơi, có như vậy mới có thể bận rộn cái mà người ta cho là thảnh thơi.

Không có gì vui bằng nhàn, nhàn không phải là không làm gì.

Có nhàn mới đọc được sách, mới đi coi được những thắng cảnh, mới giao du được với những bạn bè có ích, mới uống rượu được, mới viết sách được. Có cái vui nào lớn hơn vậy nữa?

Mây được mặt trời chiếu vào rồi mới thành ráng, suối treo vào đá rồi mới thành thác. Cũng là vật đó mà gởi vào một cái khác thì có tên khác. Cho nên cái đạo bạn bè rất đáng quí.

Nói chuyện với bạn uyên bác như đọc sách lạ, nói chuyện với bạn phong nhã như đọc thi văn của danh nhân, nói chuyện với bạn nghiêm cẩn, đạo đức như đọc kinh truyện của thánh hiền, nói chuyện với bạn hoạt kê như đọc tiểu thuyết truyền kì.

Kẻ sĩ nên có bạn thân. Bạn thân bất tất phải là bạn thề sống chết có nhau. Thường thì bạn thân là bạn cách xa nhau trăm ngàn dặm vẫn có thể tin nhau, không nghe những lời người ta nói xấu về bạn. Việc nào nên làm, nên ngưng thì thay bạn mà mưu tính quyết đoán; hoặc những lúc lợi hại, giúp bạn mà không cho bạn biết, cứ hết lòng vì bạn mà không lo rằng bạn có hiểu mình không.

Tìm tri kỉ trong chỗ bạn bè là việc dễ, tìm tri kỉ trong chỗ thê thiếp là việc khó, tìm tri kỉ trong chỗ vua tôi càng khó nhất.

Diễn được những ý người trước chưa diễn mới là sách lạ; nói được những điều khó nói về vợ con, mới là bạn thân.

Ở thôn quê, có được bạn tốt thì mới thích. Hạng nông dân và tiều phu chỉ nói chuyện được về lúa má, mưa nắng, làm cho ta mau chán. Trong số bạn bè, người nào làm thơ được là quí nhất, rồi tới người nào nói chuyện được, rồi tới người nào ca hát được, sau cùng mới tới hạng người biết những trò chơi trong xã hội…

SÁCH VÀ ĐỌC SÁCH

Tuổi trẻ đọc sách như nhìn trăng qua cái kẽ, lớn tuổi đọc sách như ngắm trăng ở ngoài sân, tuổi già đọc sách như thưởng trăng trên đài. Do từng trải nhiều hay ít mà sở đắc nhiều hay ít.

Có thể đọc những cuốn sách không có chữ (chẳng hạn cuốn sách ngoài đời) thì mới nói được những câu kinh nhân; có thể hiểu những điều giảng không được thì mới thấu được cái huyền vi nhất của đạo Phật.

Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ.

Văn chương là sơn thuỷ trên án thư, sơn thuỷ là văn chương trên đất.

Thú nhất là đọc sách; đọc sử thì vui ít mà giận nhiều, nhưng chỗ giận đó cũng là chỗ vui.

Nên đọc kinh thư vào mùa đông, để tinh thần được chuyên nhất; nên đọc sử vào mùa hè vì ngày dài; nên đọc chư tử  vào mùa thu vì nhiều ý lạ; nên đọc chư tập vào mùa xuân vì thời tiết đổi mới.

Văn nhân mà bàn về binh thư, phần nhiều là bàn luận trên giấy (nghĩa là trên lí thuyết); võ tướng mà bàn về văn chương, một nửa là nghe lỏm.

Người biết đọc sách thì cái gì cũng là sách: sơn thuỷ cũng là sách, cờ rượu cũng là sách, hoa nguyệt cũng là sách. Người biết đi coi phong cảnh thì cái gì cũng là sơn thuỷ: thư sử cũng là sơn thuỷ, hoa nguyệt cũng là sơn thuỷ.

Người xưa muốn đọc sách mười năm, du ngoạn sơn thuỷ mười năm, rồi mười năm kiểm điểm lại kinh nghiệm. Tôi nghĩ kiểm điểm chẳng cần tới mười năm, chỉ hai ba năm cũng đủ, còn đọc sách và du ngoạn sơn thuỷ thì gấp hai, gấp năm lần mười năm cũng chưa mãn nguyện. Có lẽ “phải sống ba trăm năm” như Hoàng Cửu Yên nói, may mới đủ chăng?

Cổ nhân nói: “Thơ, có khổ rồi mới khéo” (thi tất cùng nhi hậu công) vì có khốn khổ rồi giọng mới có nhiều cảm khái mà dễ có sở trường. Còn hạng người phú quí đã không lo buồn về cảnh nghèo hèn, thì chỉ vịnh về phong vân tuyết lộ, thơ có gì mà hay? Muốn thay đổi đi thì chỉ có cách đi du lịch, để được thấy núi sông, phong thổ, sản vật, nhân tình, hoặc thấy cái khổ của dân chúng sau những cuộc binh đao, trong những năm mất mùa vì hạn vì lụt, rồi tả trong thơ. Thế là mượn cái cùng sầu của người để cung cấp cho sự ngâm vịnh của ta. Vậy thơ cũng bất tất phải khổ rồi mới khéo.

BÀN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG

 Một chữ “tình” để duy trì thế giới; một chữ “tài” để tô điểm càn khôn.

Thà bị tiểu nhân mắng chứ không muốn bị quân tử khinh; thà bị giám khảo đui đánh hỏng chứ không muốn bị một học giả danh tiếng không biết tới.

Người nên giống một bài thơ, vật nên giống một bức hoạ.

Có những cảnh như rất u tĩnh mà thực ra thì tiêu điều, tức cảnh sương mù, cảnh mưa; có những tình cảnh như rất nhã mà thực ra rất khó chịu, tức cảnh nghèo khổ, đau ốm; có những tiếng nghe rất phong tao mà thực ra thì thô bỉ, như tiếng rao bán hoa.

Cày ruộng, tôi làm không được, thôi thì tưới vườn vậy; đốn củi, tôi làm không được, thôi thì nhổ cỏ vậy.

Tôi hận mười điều: một là sách dễ bị mối ăn; hai là mùa hè có nhiều muỗi; ba là sân thượng để ngắm trăng dễ rỉ nước; bốn là lá cúc thường héo; năm là tùng có nhiều kiến lớn; sáu là lá tre rụng trên đất nhiều quá; bảy là hoa quế và hoa sen mau tàn; tám là trong đám cỏ tiết thường có rắn; chín là hoa trên các mắt cáo thường có gai; mười là thịt nhím thường độc.

Một người ngồi sau cửa sổ, vẽ lên mảnh giấy cửa sổ, ta đứng ngoài nhìn vào, thấy đẹp lạ.

Gặp đời thái bình, sinh ra ở nơi có núi, có hồ mà quan chủ quận liêm khiết, cảnh nhà phong lưu, cưới vợ hiền, đẻ con thông minh, đời được như vậy tôi cho là toàn phúc.

Trong lòng mà có cảnh núi hang thì sống ở thành thị cũng như sống ở núi rừng; cảm hứng gởi vào mây khói thì Diêm Phù cũng như Bồng Đảo.

Ở thành thị nên lấy tranh làm sơn thuỷ, lấy bồn cảnh làm vườn tược, lấy sách làm bạn.

Đón danh sư về dạy con, vào danh sơn mà luyện cử nghiệp, đều là những điều lầm lẫn.

Một nhà tu hành bất tất phải giới tửu mà phải giới tục, đàn bà bất tất phải hiểu văn nhưng phải đẹp.

Nếu người thu thuế làm cho ta khó chịu thì đóng thuế sớm đi; muốn bàn đạo Phật với nhà sư thì phải thường bố thí.

Cái gì cũng dễ quên, chỉ có lòng ham danh là khó quên.

Rượu có thể thay trà, trà không thể thay rượu; thơ có thể thay văn, văn không thể thay thơ; khúc có thể thay từ, từ không thể thay khúc; trăng có thể thay đèn, đèn không thể thay trăng; bút có thể thay lời, lời không thể thay bút; người ở gái có thể thay người ở trai, người ở trai không thể thay người ở gái.

Điều bất bình nhỏ trong lòng, uống rượu vào có thể tiêu được; điều bất bình lớn trong đời, không dùng gươm không thể dẹp được.

Người bận rộn nhiều thì vườn nên ở bên cạnh nhà; người nhàn nhã thì nhà và vườn có xa nhau cũng không hại.

Đau, có thể chịu được; ngứa, không thể chịu được; đắng, có thể chịu được; chua, không thểchịu được.

Hạc làm cho ta có vẻ nhàn; ngựa làm cho ta có vẻ anh hùng; lan làm cho ta có vẻ ẩn dật; tùng làm cho ta có vẻ cổ kính.

Có cái vui sơn lâm ẩn dật mà không biết hưởng là hạng tiều phu, hạng làm vườn và hạng thầy chùa.

Có vườn tược, thê thiếp mà không biết vui là bọn phú thương và quan lớn.

Nghiên mực của người nhàn phải đẹp mà nghiên của người bận rộn công việc cũng cần phải đẹp.

Món ăn ngon mà nuốt cho mau hết, phong cảnh lạ mà đi chơi chỉ lướt qua, tình thâm mà diễn bằng những lời nông nổi, ngày đẹp mà chỉ nghĩ đến chuyện ăn uống; giàu có mà cư xử theo thói kiêu sa; tất cả những hành động đó đều là trái ý trời.

(Lâm Ngữ Đường)

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

Đời vui

1. Mùa hè, tháng bảy, mặt trời ngừng ở giữa trời, không có gió mà cũng không có mây, sân trước sân sau hực lên như lửa, không một con chim nào dám bay lại. Mồ hô đổ khắp mình, chảy như suối. Cơm dọn trước mặt mà ăn không được. Bảo trải chiếu để nằm trên đất, nhưng chiếu ướt nhẹp, ruồi bay lại đậu ở cổ, ở mũi, đuổi không đi. Đương lúc không biết làm sao, thì bỗng mây đen cuốn tới, sấm nổ vang như trăm vạn tiếng trống tiếng kèn của đạo quân. Mái nhà nước xối như thác. Mồ hôi ngưng chảy, đất khô như quét, ruồi bay đi hết, ăn cơm được. Chẳng cũng khoái ư?

2. Một ông bạn cách biệt mười năm, chiều tối bỗng tới nhà. Mở cửa, vái nhau xong, chưa kịp hỏi han đi đường thuỷ hay đường bộ, cũng chưa kịp mời bạn ngồi ở giường hay ở ghế, vội vào trong bếp, hỏi nhỏ vợ: “Bà có sẵn đấu rượu như bà Đông Pha không?”. Vợ vui vẻ gỡ cây trâm vàng đem đổi rượu. Tính ra đãi bạn được ba ngày. Chẳng cũng khoái ư?

3. Đêm ngồi một mình trong phòng không, đương bực mình vì một con chuột ở đầu giường, sột soạt không biết gậm đồ vật nào hay nhấm cuốn sách nào. Trong lòng nghi hoặc, không biết phải làm sao thì bỗng thấy một chú mèo dữ, đuôi ngoe nguẩy, mắt chăm chú như ngó cái gì. Tôi yên lòng nín thở đợi xem; bỗng nghe kêu chít lên một tiếng nhỏ, con chuột chạy biến đi như gió. Chẳng cũng khoái ư?

4. Trước thư trai, chặt các cây hải đường rũ lá và các cây tử kinh để trồng một vài cây chuối. Chẳng cũng khoái ư?

5. Đêm xuân uống rượu với vài bạn hào sĩ (kẻ sĩ hào phóng, lãng mạn), tôi đã nửa say, do dự không biết nên uống nữa hay ngừng. Một đồng tử đứng bên, hiểu, đem lại một gói trên mười chiếc pháo bông, tôi đứng dậy châm lửa đốt. Mùi lưu hoàng xông vào mũi, vào óc, toàn thân nhẹ nhàng. Chẳng cũng khoái ư?

6. Đi chơi ngoài đường thấy hai gã tranh lí với nhau, mắt trợn mặt đỏ, tưởng chừng như không đội trời chung nữa, vậy mà vẫn làm bộ lễ độ, chắp tay đưa lên, khom lưng xuống, miệng đầy những tiếng “chi, hồ” (nghĩa là ngôn ngữ rất nhã nhăn), thao thao bất tuyệt. Bỗng một tráng phu vung tay tiến lại, dõng dạt quát một tiếng, giải tán hai gã kia. Chẳng cũng khoái ư?

7. Nghe trẻ đọc thuộc sách làu làu như nước trong bình chảy ra. Chẳng cũng khoái ư?

8. Sau bữa cơm, không biết làm gì, dạo chợ, thấy một món đồ nhỏ, muốn mua. Trả giá cũng gần xong, số tiền chỉ còn cách nhau một chút, mà người bán không chịu nhường, cố tranh cho được. Tôi lấy ở trong tay áo ra một vật giá trị cũng xấp xỉ chỗ sai biệt đó, ném xuống quầy cho người bán hàng. Hắn đổi ngay sắc diện, cười cười, chắp tay thưa “không dám, không dám”. Chẳng cũng khoái ư?

9. Sau bữa cơm, không biết làm gì, sắp đặt lại một chiếc rương cũ, bỗng thấy hàng chục hàng trăm văn khế cũ mới của những người thiếu nợ. Người còn, kẻ mất, nhưng đều toàn là vô hi vọng đòi lại được tiền. Không cho ai hay, tôi gom lại, châm lửa đốt hết, nhìn lên trời cao không gợn một chút mây. Chẳng cũng khoái ư?

10. Một ngày hè, đầu trần chân không, cầm cây dù che nắng, nhìn tráng phu vừa đạp nước vừa hát khúc Ngô. Nước cuồn cuộn đưa lên trắng phau như bạc, như tuyết. Chẳng cũng khoái ư?

11. Sáng sớm thức dậy, nghe như có tiếng gia nhân than thở rằng: Có người nào mới chết ban đêm. Tôi liền lên tiếng hỏi ai chết, thì chính là một kẻ giảo quyệt mưu mô nhất trong thành. Chẳng cũng khoái ư?

12. Một ngày hè, dậy sớm, thấy người ta cưa tre làm ống nước ở dưới một mái che. Chẳng cũng khoái ư?

13. Mưa dầm suốt tháng, sáng nằm ở giường không muốn dậy, như người say rượu hoặc đau. Bỗng nghe chim ríu rít mừng nắng. Tôi vội đưa tay vén màn, đẩy mạnh cửa sổ ngó ra, thấy ánh mặt trời long lanh, rực rỡ và cây trong rừng như mới gội. Chẳng cũng khoái ư?

14. Ban đêm hình như cảm thấy có người nào đó ở xa nghĩ tới mình, sáng dậy thử lại thăm. Qua cửa sổ ngó vào trong phòng, thấy đúng người đó đương ngồi ở bàn đọc một văn thư. Thấy mình vô, người đó lặng lẽ vái, kéo tay áo bảo ngồi rồi nói: “Bác đã tới đây thì thử đọc văn thư này đi”. Rồi cùng nhau vui cười, cho đến khi ánh mặt trời đã biến hết. Chủ nhân thấy đói, hỏi khách: “Bác cũng đói chứ? Chẳng cũng khoái ư?

15. Vốn không có ý cất nhà, ngẫu nhiên được một số tiền thì cũng thử cất chơi. Từ hôm đó, không sáng nào, tối nào là không nghe om om bên tai những tiếng kêu thiếu gỗ, thiếu đá, thiếu ngói, thiếu gạch, thiếu vôi, thiếu đinh. Tôi phải chạy khắp nơi kiếm tiền mua thêm, mà trong thời gian đó cũng không thể ở nhà được nữa, cho tới khi an phận chịu cảnh đó vậy. Bỗng một hôm nhà cất xong, tường đã quét vôi, sàn đã lau chùi, cửa sổ đã dán giấy, tranh đã treo. Thợ thuyền về hết, bạn bè tới, chia nhau ngồi. Chẳng cũng khoái ư?

16. Đêm đông uống rượu, trời chuyển lạnh dữ, đẩy cửa sổ nhìn ra thấy những nấm tuyết lớn phủ mặt đất tới ba bốn tấc. Chẳng cũng khoái ư?

17. Ngày hè, cầm dao bén cắt một trái dưa hấu vỏ xanh bày trên một cái mâm đỏ. Chẳng cũng khoái ư?

18. Đã từ lâu muốn làm tì khưu, nhưng khổ nỗi không được công nhiên ăn thịt. Nếu được làm tì khưu, lại được công nhiên ăn thịt thì mùa hè nấu một nồi nước, dùng con dao bén, cao đầu cho sạch. Chẳng cũng khoái ư?

19. Có ba bốn mảng phong lở ở chỗ kín, thỉnh thoảng đóng cửa lấy thuốc nóng rửa. Chẳng cũng khoái ư?

20. Mở rương ra, vô tình tìm được một bức thư của cố nhân. Chẳng cũng khoái ư?

21. Một hàn sĩ lại mượn tiền, nhưng còn ngại ngùng và nói bâng quơ những chuyện đâu đâu; đoán được khổ tâm của bạn, kéo lại chỗ vắng, hỏi cần bao nhiêu; rồi đi vô nhà trong, lấy đủ số ra đưa. Và hỏi bạn có cần về gấp để thu xếp công việc không, nếu không thì ở lại uống vài chén rượu. Chẳng cũng khoái ư?

22. Ngồi trong chiếc thuyền nhỏ, gặp gió tốt, khổ nỗi không có buồm để giương cho nó hả. Bỗng thấy một chiếc thuyền lớn tiến vùn vụt như gió. Thử liệng cái móc qua, hi vọng níu được. Không ngờ mà móc trúng, rồi lấy dây đỏi cột vào đuôi thuyền lớn, và ngâm hai câu của Đỗ Phủ: “Màu xanh làm ta nhớ tiếc núi, màu đỏ bảo ta rằng có cam quít” (Thanh tích phong loan, hồng tri quất dữu) rồi vui vẻ phá lên cười. Chẳng cũng khoái ư?

23. Từ lâu muốn kiếm một ngôi nhà để ở với một người bạn, nhưng chưa được chỗ vừa ý. Bỗng có người cho hay có một ngôi nhà không rộng lắm, khoảng trên mười gian, cửa ngó ra sông cái, lại thêm cây cối tươi tốt. Giữ người đó lại, ăn cơm xong rồi cùng đi coi nhà, vì cả hai đều chưa biết ngôi nhà ra sao. Vô khỏi cổng, thấy ngay một khoảng đất trống độ sáu bảy mẫu, sau này khỏi lo thiếu dưa, rau. Chẳng cũng khoái ư?

24. Xa quê đã lâu mới được về, ngó thấy cửa thành, hai bên bờ sông đàn bà trẻ con đều nói giọng cố hương. Chẳng cũng khoái ư?

25. Một đồ sứ đẹp đã bể, không sao gắn lại được. Lật đi lật lại, càng nhìn càng bực mình, không biết làm sao. Bảo giao cho người bếp dùng làm gì thì dùng, miễn là khuất mắt mình đi. Chẳng cũng khoái ư?

26. Mình không phải là bực thánh, làm sao không có lỗi. Ban đêm bất giác làm một việc quấy không ai hay, sáng dậy áy náy, thực không an lòng. Bỗng nhớ rằng theo phép Bồ Tát của nhà Phật, hễ không giấu lỗi tức là sám hối rồi; như vậy bèn vui vẻ kể lỗi ra với khách chung quanh, cả thân lẫn sơ. Chẳng cũng khoái ư?

27. Nhìn người ta viết chữ triện lớn, chẳng cũng khoái ư?

28. Mở cửa sổ cho ong bay ra, chẳng cũng khoái ư?

29. Làm quan huyện, mỗi ngày cho đánh trống lui hầu. Lúc đó, chẳng cũng khoái ư?

30. Thấy chiếc diều đứt dây, chẳng cũng khoái ư?

31. Nhìn cảnh đốt đồng, chẳng cũng khoái ư?

32. Trả hết nợ, chẳng cũng khoái ư?
33. Đọc truyện Cầu nhiêm khách, chẳng cũng khoái ư?

Nhà

“Bước qua khỏi cổng là tới một lối đi, lối đi nên khuất khúc. Tới khúc quẹo của lối đi một bức bình phong, bình phong nên nhỏ. Sau bình phong là một cái sân, sân nên phẳng. Ở bên cái sân có hoa, hoa nên tươi. Sau dẫy hoa có bức tường, tường nên thấp. Gốc tường có cây thông, thông nên già. Dưới gốc thông có đá, đá nên kì quái. Trên đá có cái đình (nhà mát), đình nên giản phác. Sau đình có trúc, trúc nên nhỏ và thưa. Hết các bụi trúc tới nhà ở, nhà nên u tịch. Bên nhà có đường đi, đường nên rẽ ra hai ngả. Chỗ rẽ có cầu, cầu nên cao. Bên cầu có cây, cây nên lớn. Dưới bóng cây có cỏ, cỏ nên xanh. Trên bãi cỏ có hào (rãnh), hào nên hẹp. Cuối hào có ngọn suối, suối nên róc rách. Phía trên dòng suối nên có núi, núi nên cao. Chân núi có cái trang, trang nên vuông vắn. Một bên cái trang có vườn rau, vườn nên rộng. Trong vườn có hạc, hạc phải múa. Hạc báo có khách tới, khách không phàm tục. Khách tới bày rượu, khách không được từ chối; uống rượu rồi say, khách say mà không đòi về”.

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2011

Chiến lược nào cho Việt Nam? Chúng ta không còn thời gian nữa!!!

Đến thời điểm này, nhận định của anh Lãng có vẻ đã xác đúng tới 99%. Sự hung hăng gần đây của Trung Quốc ở các vùng biển thuộc phạm vi lãnh hải 200 hải lý của Việt Nam và Phillipin chỉ là một màn hỏa mù che dấu cho ý đồ thực sự: Đưa giàn khoan khổng lồ vào khai thác tại vùng nước tranh chấp ở vùng biển Trường Sa. Vấn đề với các nước có liên quan: Họ sẽ phải cản bước Trung Quốc lại bằng cách nào?

Thực tế cho thấy, với bản chất lật lọng và tráo trở, người Trung Quốc coi mọi thỏa thuận mà họ từng ký chỉ là nắm rác. Trung Quốc chỉ tôn trọng đối phương, khi đối phương đủ mạnh, đủ quan hệ đồng minh để đối chọi lại sức mạnh đang không ngừng gia tăng của cái đất nước hiếu chiến ấy. Quá ngây thơ cho bất cứ ai, tin vào chữ tín hay sự thật lòng của Trung Quốc.

Điều đáng buồn là trong nhiều thập niên, đã từng có không ít thằng ngu đang nắm quyền cai trị ở Việt Nam thực sự đã từng tin vào sự thật lòng của Trung Quốc. Mới chỉ cách đây ít năm thôi, khi một loạt chuyên gia kinh tế và những người Việt Nam có tầm nhìn xa, đưa ra hàng loạt cảnh báo về các chính sách của Việt Nam đang tạo sự nguy hiểm khi để các công ty Trung Quốc có điều kiện thắng thầu và thâm nhập quá sâu vào nền kinh tế Việt Nam. Bất chấp mọi lời cảnh báo, sự thiếu thận trọng của bộ phận chóp bu cầm quyền, trông đợi vào chữ tín và sự hòa hiếu của Trung Quốc với những con mẹ gì mười sáu chữ vàng và bốn tốt, được làm trầm trọng thêm bởi đội ngũ lãnh đạo tha hóa tham nhũng (Trung Quốc rất sẵn lòng lợi dụng điều này), để đến ngày nay, nền kinh tế Việt Nam lâm vào những khó khăn nặng nề. Cùng lúc đó, trên biển, Trung Quốc không ngừng lấn tới.

Tuy nhiên mọi sai lầm cũng là quá khứ. Đất nước nguy nan, đây không  phải là lúc chúng ta đem vấn đề ra mổ xẻ rằn vặt lẫn nhau. Phải chấp nhận thực trạng đau xót hiện tại, nhìn thẳng vào nó, cùng xiết chặt tay nhau tìm lối ra trong màn đêm đen tối. Phẩm chất ưu tú này của người Việt, chính là thứ để thế giới phải kính chào, và cũng chính là chất keo gắn kết giúp cha ông chúng ta gìn giữ được bờ cõi trước hàng trăm cuộc xâm lược đến từ Trung Quốc trong quá khứ.

Trung Quốc vốn là một dân tộc hèn nhát và ti tiện. So với các dân tộc kiêu hùng trong khu vực, ví dụ Nhật Bản, thì người Trung Quốc chỉ là một đám dân ti tiện và hèn mạt không hơn. Dẫu rằng Khổng Tử sinh ra ở Trung Quốc, nhưng dân tộc bội tín, hèn nhát, tráo trở và lừa lọc nhất lại chính là người Trung Quốc. Họ chưa từng dám đánh nhau với bất cứ một cường quốc nào, khi bị xâm lăng, Trung Quốc luôn đầu hàng và bại trận. Một Nhật Bản bé nhỏ bằng 1/20 Trung Quốc với dân số ít hơn vài chục lần, nhưng cũng đủ sức đè đầu cưỡi cổ cả nước Trung Hoa rộng lớn trong ngót 10 năm, mà bản thân người Trung Quốc không có khả năng tự giải phóng lấy mình. Nếu thế chiến thứ hai, Mỹ và Liên Xô không hợp lực đánh bại Nhật Bản, thì giờ cả đất nước Trung Hoa hẳn đã là một lãnh thổ trực thuộc phía Nam của nước Nhật. Tuy nhiên, Trung Quốc luôn sẵn sàng vênh vác, cậy đông cậy mạnh để o ép các dân tộc nhỏ yếu hơn. Đây là câu chuyện hiện đang diễn ra ở Biển Đông, giữa Trung Quốc, Việt Nam và một số nước Đông Nam Á nhỏ yếu khác.

Trung Quốc có thể là một nước lớn, nhưng nó không bao giờ có tư cách trở thành bá chủ như Liên Xô một thời hay như Mỹ hiện nay. Bởi đơn giản, nó không có tư cách đáng được tôn trọng.

Nhận xét thấu triệt về bản chất Trung Quốc, sẽ giúp chúng ta nhìn thấu chiến lược nhất quán của người Tàu, từ đó đề ra phương cách khoét sâu vào điểm yếu đối phương và tìm ra giải pháp.

Tham lam, đê tiện và hèn nhát, Trung Quốc sẵn sàng chà đạp bất cứ một đối thủ yếu ớt nào không một chút xót thương. Nhưng nó sẽ co vòi, nếu chạm với một đối thủ cứng đầu, dù yếu hơn nhưng có tinh thần bất khuất. Điều này chính là thứ đã diễn ra trong suốt lịch sử mấy chục thế kỷ sinh tồn của Việt Nam bên cạnh Trung Quốc. Quỵ lụy và hèn nhát trước Trung Quốc, chúng sẽ lấn tới và chà đạp chúng ta xuống tận bùn đen, không có một chút nhân từ hoặc nhân tính con người (Hãy xem cảnh lính Trung Quốc hăm hở xả trọng liên vào hàng lính nắm tay nhau trên bãi ngầm ngập nước của Việt Nam năm 88, và hãy nhớ lại sự nhục nhã hèn kém của Trung Quốc trước Nhật Bản thời thế chiến II, và đến giờ Nam Kinh vẫn là vết nhơ không cách gì xóa nổi của một đất nước to lớn, tàn bạo, nhưng hèn kém). Đừng bao giờ trông chờ vào sự nhân từ của Trung Quốc, và càng đừng bao giờ trông đợi vào những thứ con mẹ gì tình đồng chí, đồng ý thức hệ, 16 chữ vàng hay 4 tốt. Một thế hệ những thằng ngu ở Việt Nam rồi sẽ phải chịu phán xét của lịch sử cho những sự ngu dốt của chúng.

Chiến lược duy nhất của Việt Nam, để tồn tại bên cạnh Trung Quốc, nhường nhịn đến hết mức có thể chấp nhân, nhưng phải luôn sẵn sàng tinh thần quyết chiến đến cùng với bất cứ giá nào khi chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia bị đe dọa. Chỉ có tinh thần sẵn sàng quyết chiến, một cách thật sự, bằng những hành động cụ thể, mới giúp chúng ta có cửa sinh tồn bên cạnh cái đất nước đê tiện ấy.

Mọi kế hoạch của người Việt, đều phải được xây dựng bám sát theo cái chiến lược cốt lõi ấy: Nhẫn nhịn, nhưng bất khuất và sẵn sàng chiến đấu tới cùng.

Những sự kiện gần đây, là các bước tiến có tính logic của Trung Quốc trong chiến lược thôn tính trọn vùng biển phía Nam. Trung Quốc đã tiến hành mục đích này một cách nhất quán, xuyên suốt từ thời Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân cho tới Hồ Cẩm Đào hiện nay. Bất kể kẻ nắm quyền ở Trung Quốc là ai, thì bản chất đất nước (chứ không phải chỉ là chính quyền) Trung Quốc đều không từ bỏ cái dã tâm xâm lấn này.

Với một đối thủ nham hiểm, luôn có dã tâm nhất quán, nhiều thế hệ cầm quyền ở Việt Nam đã phạm sai lầm. Điều đó khiến Trung Quốc thắng thế và từng bước nuốt dần lãnh thổ trên biển của Việt Nam. Năm 1958 chúng chiếm đảo Phú Lâm, năm 1974 chúng nuốt trọn Hoàng Sa, năm 1988 chúng chiếm 9 đảo và đá ngầm của Việt Nam ở Trường Sa và hiện nay, năm 2011 chúng đang âm mưu đưa giàn khoan khổng lồ khoan sâu 3000 m nước vào cắm tại Trường Sa, trong một chiến lược nhằm hiện thực hóa quyền kiểm soát và khai thác của Trung Quốc ở vùng biển của Việt Nam.

Chúng ta cần có một chiến lược nhất quán, nhằm chặn chiến lược của Trung Quốc lại, chứ không phải chỉ đối phó với những hành động gây hấn có tính chiến thuật của người Tàu. Không thể cư xử với người Tàu bằng các giải pháp cấp thời, có tính đối phó manh mún, mà phải có một chiến lược nhất quán.

Cách đây 4 năm, anh Lãng từng đưa ra cảnh báo, trước sau gì Trung Quốc cũng sẽ đơn phương thăm dò khai thác tại Biển Đông, đi kèm với các chiến thuật kiểm soát nguồn lợi hải sản và chế tài trên biển. Đến giờ, tất cả đều đã được chứng minh. Đối với cá nhân anh mà nói, hoàn toàn không có một chút tự hào gì khi tầm nhìn của anh biến thành sự thật. Thực sự, anh cảm thấy đau xót, và phẫn nộ. Người Việt Nam, không thiếu trí tuệ, không thiếu tài nguyên, không thiếu nguồn lực con người, nhưng chúng ta, gồm cả những người ưu tú nhất, đều chỉ có thể giương mắt nhìn thực tế Trung Quốc ngày một xâm nhập sâu vào nền kinh tế Việt Nam, ngày một tiến dài hơn xuống phía nam để chiếm đoạt và xâm lược lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam. Đây là một câu chuyện thuộc về lịch sử và nhiều kẻ rồi sẽ phải trả lời.

Nhưng cũng như bất cứ một thời khắc nguy nan nào trong lịch sử, mà cha ông chúng ta nhiều lúc đã trải qua. Chính thế hệ những người Việt Nam hiện nay, phải chấp nhận đối mặt với thử thách, và chắc chắn phải tìm ra lối đi cho dân tộc.

Trung Quốc mạnh lên, hung hăng hơn, và chúng cũng đồng thời đang phạm sai lầm. Cái mặt nạ yêu chuộng hòa bình của Trung Quốc đã bị lột bỏ, sự tráo trở cũng thể hiện rõ khi thỏa ước DOC ký giữa TQ với ASEAN năm 2002 cũng đã bị Trung Quốc đạp dưới gót dày. Không còn bất cứ sự ngây thơ nào tin tưởng vào mục đích trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc. Đây là điều Việt Nam cần tận dụng và chớp lấy cơ hội.

Trước chiến lược thôn tính và xâm lăng nhất quán của TQ, Việt Nam cũng cần có một chiến lược nhất quán, xuyên suốt mọi chính sách, mọi lãnh đạo cầm quyền và thậm chí là mọi chế độ: “Nhẫn nhịn hết mức với Trung Quốc, nhưng luôn đề cao giá trị cốt lõi về chủ quyền, về toàn vẹn lãnh thổ, luôn sẵn sàng quyết chiến đến cùng một khi giá trị cốt lõi của Việt Nam bị đe dọa. Lấy mục tiêu thoát khỏi ảnh hưởng kìm kẹp về kinh tế, chính trị, văn hóa của Trung Quốc làm một chiến lược lâu dài. Xây dựng thêm các quan hệ đồng minh xuyên đại dương, phải nhắm tới quan hệ bền vững với Nhật Bản, Ấn Độ, Mỹ, EU làm nền tảng”.

Hãy nhìn vào thực tế này, sau các hành động quấy rối của TQ với các tàu thăm dò của Việt Nam, duy nhất có công ty của Nhật Bản công khai tuyên bố: Chúng tôi sẽ tiếp tục hợp tác với Việt Nam để thăm dò khai thác dâu khí, bởi chúng tôi tin rằng đó là lãnh hải không tranh chấp thuộc Việt Nam theo các quy định của luật pháp quốc tế. Lửa thử vàng, chúng ta phải trân trọng những người bạn đích thực, và cần có thêm những người bạn đích thực như thế.

Sự hung hăng gần đây của Trung Quốc, cũng tạo thành một cơ hội vàng để Việt Nam thực hiện các bước đi kiên quyết, nhất quán, nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc Trung Hoa. Thể chế cầm quyền hiện nay ở Việt Nam, và toàn bộ người Việt Nam, phải chớp lấy cơ hội này để thoát khỏi cái vỏ giả tạo 16 chữ vàng hay 4 tốt mà Trung Quốc và đám chóp bu Việt Nam vẫn tụng niệm (và tôn trọng trên thực tế về phía Việt Nam) trong những năm qua. Bất cứ một ảo tưởng nào vào chữ tín, vào sự hòa hiếu của TQ cần phải được xóa bỏ triệt để. Trung Quốc đã xé mặt nạ, Việt Nam cần nhân cơ hội thực hiện các bước đi kiên quyết. Trên hết, anh muốn đề cập đến lĩnh vực kinh tế.

Nhiều người thường nói rằng, dứt khỏi dòng thương mại với Trung Quốc, Việt Nam sẽ khủng hoảng nặng nề. Điều đó đúng, nhưng sự tổn thất cũng đồng thời chính là cơ hội. Quan hệ giao thương với Trung Quốc, phần bất lơi thuộc về Việt Nam. Phần thặng dư 15 tỷ USD trong quan hệ thương mại với Trung Quốc với phần lợi nghiêng về người Tàu, là một nguồn công ăn việc làm quan trọng với Trung Quốc chứ không phải chỉ với chúng ta. Có nhiều nguyên nhân cho sự nhập siêu nặng nề này của Việt Nam, các hợp đồng thắng thầu của hàng lọat công ty TQ với các dự án trọng điểm ở Việt Nam (Giá rẻ, kết hợp nạn tham nhũng trong quan chức Việt Nam khiến câu chuyện càng trầm trọng, cố nhiên, đi kèm với nó là chất lượng vứt đi của công trình hàng tàu mà người đóng thuế Việt Nam phải gánh), nạn hàng lậu, tiền giả, chính sách tỷ giá bất đối xứng, tất cả đều là những lý do do bức tranh toàn cảnh. Bên cạnh đó, dòng thương mại với Trung Quốc còn khiến nền sản xuất Việt Nam bị bóp chết ở nhiều ngành. Yếu điểm về tính manh mún, chộp giật của người Việt bộc lộ rõ khi chúng ta trong nhiều năm trời không xây dựng được ngành công nghiệp phụ trợ, cái mà nếu có, Việt Nam đã trở thành một cường quốc có năng lực sản xuất, xuất khẩu mạnh và xuất siêu.

Tiếp tục cơ chế buôn bán với TQ như hiện nay, vĩnh viễn Việt Nam bị biến thành một công đoạn sản xuất hàng và xuất khẩu phụ trợ cho nền kinh tế TQ. Thặng dư của Việt Nam với Mỹ và EU, bị đổi lại toàn bộ bởi nhập siêu với Trung Quốc. Chúng ta, thay vì thặng dư thực sự, hóa ra chỉ là một công cụ xuất khẩu của người Tàu.

Giũ bỏ dòng thương mại với Trung Quốc, sẽ tạo thành một cú sốc nặng nề với Việt Nam, nhưng chúng ta cũng sẽ có cơ hội để thực sự xây dựng được một nền sản xuất mạnh, gồm cả ngành công nghiệp phụ trợ lẫn thành phẩm, cái sẽ tạo tiền đề để Việt Nam cất cánh trong tương lai.

Có nhiều lý do để anh Lãng tin chắc người Việt Nam sẽ thành công: Giá nhân công Việt Nam hiện vẫn rất cạnh tranh, thấp hơn nhiều so với khu vực và kể cả bản thân TQ. Công nghệ của các ngành sản xuất cơ bản, đặc biệt là ngành dệt, hóa chất cơ bản, tơ sợi, hoàn toàn nằm trong khả năng tiếp cận và làm chủ của người Việt Nam. Không có lý do gì, Việt Nam không xây dựng được ngành công nghiệp phụ trợ, mà vốn hiện nay đang phải lệ thuộc tuyệt đối vào Trung Quốc do cái bẫy của cơ chế thương mại toàn cầu.

Trong khi có thể mua hàng từ TQ, tất nhiên không có doanh nhân nào của Việt Nam tự bỏ tiền ra đầu tư những nhà máy phụ trợ mới. Nhưng nếu Việt Nam nhân cơ hội TQ xé rách da mặt, quyết tâm gánh chịu tổn thất kinh tế, từ chính phủ, đến doanh nhân và người tiêu dùng, cùng đồng cam cộng khổ, chắc chắn chúng ta sẽ xây dựng được một nền kinh tế có cơ cấu phù hợp, đủ sức cạnh tranh và vươn lên trong hệ thống thương mại, sản xuất thế giới. Chúng ta phải luôn ý thức được rằng, Việt Nam có đủ lợi thế về nhân lực, về mặt bằng giá lao động và cả về chất xám. Vấn đề còn lại là, chúng ta có đủ dũng cảm, đủ quyết tâm để dứt bỏ khỏi sự lệ thuộc dễ dãi nhưng đau xót với hệ thống thương mại TQ hay không mà thôi.

Nếu anh Lãng đang nắm quyền, anh sẽ thực thi các biện pháp kiên quyết, từ từ nhưng nhất quán, dựng ra các hàng rào kỹ thuật để hàng TQ vào Việt Nam ngày một khó khăn hơn. Các lý do không khó, vì hàng TQ tồn tại quá phổ biến sự độc hại và các vấn đề về chất lượng. Cản hàng TQ lại, nền sản xuất VN sẽ gặp khó khăn, nhưng nếu chính phủ hỗ trợ thành phần doanh nhân Việt Nam một cách hợp lý, họ sẽ có đủ quyết tâm, dũng khí và nguồn lực để xây đắp những nhân tố cơ bản, bền vững cho nền sản xuất và nền kinh tế Việt Nam.

Gần đây TT Nguyễn Tấn Dũng, giữa cơn quay cuồng o ép chủ quyền của người Tàu trên biển Đông, và bài phát biểu đanh thép với cương vị thủ tướng Việt Nam tại Nha Trang, lại tiếp tục ra tuyên bố thúc đẩy dự án Bô xít Tây Nguyên. Đây là một điều đáng thất vọng, bởi nó cho thấy, trong một bộ phận thành phần nắm quyền chủ chốt, vẫn chưa đủ tư duy và dũng khí thoát ra khỏi bóng ma lợi ích cá nhân và lề lối cũ. Người Việt Nam cần đấu tranh bằng được với lối tư duy này. Nó đi ngược lại lợi ích sống còn của dân tộc chúng ta.

Xuyên suốt, chúng ta cần chấp nhận giảm dòng thương mại với Trung Hoa, chấp nhận các cú sốc với nền kinh tế, tự lực cánh sinh xiết chặt tay nhau xây dựng nền công nghiệp phụ trợ và nền kinh tế hướng ra xuất khẩu. Trong vòng 10 năm, Việt Nam sẽ trở thành một đất nước quan trọng trong hệ thống thương mại toàn cầu, và chúng ta sẽ được tưởng thưởng bởi những thiệt hại và khó khăn trong hiện tại. Điều này, cũng phù hợp với đặc tính của người Việt Nam: Khi bị dồn đến chân tường, cái dân tộc ấy sẽ làm được nhiều kỳ tích. Đây là một chiến lược không lệ thuộc vào anh, hay các bạn, mà nằm ở Bộ Chính Trị Việt Nam. Chúng ta phải đành phải chờ xem, chúng ta đang được lãnh đạo bởi ai, và họ có thực sự đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.

Với các chiến thuật gây hấn không ngừng của của Trung Quốc trên biển, chúng ta cũng cần có một chiến lược xuyên suốt và nhất quán. Chúng ta nhường nhịn Trung Quốc, sẵn sàng tôn trọng lợi ích chiến lược của Trung Quốc, nhưng luôn có tinh thần và phải thực sự sẵn sàng quyết chiến đến cùng với TQ. Nhường nhịn, nhưng khi phải đánh, chúng ta sẵn sàng đánh, chấp nhận mọi cái giá phải trả và đánh đến cùng. Không có cách nào khác.

Khi TQ tôn trọng chúng ta, chúng ta cần tôn trọng họ hết mức có thể, thậm chí xếp Tàu trên chúng ta một bậc. Nếu giả sử TQ chấp nhận tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, Việt Nam cần sẵn sàng hợp tác cùng khai thác với TQ, và đảm bảo an ninh cho TQ. Nhưng khi chúng lấn tới, chúng ta phải đánh tới cùng.

Câu chuyện trước mắt, Việt Nam phải chặn giàn khoan TQ sẽ đưa vào Trường Sa bằng cách nào. Vin vào dư luận quốc tế, vào thỏa ước DOC đến giờ cho thấy là không đủ. Việt Nam cần kết hợp với Philipin, nước cũng bị ảnh hưởng trực tiếp, kiên quyết hình thành một hoạt động liên minh phối hợp, chặn bằng được giàn khoan của TQ. Vận dụng tối đa dư luận quốc tế, nhưng sẽ là không đủ, cần chuẩn bị các phương tiện ngăn cản trên thực địa, có phối hợp hành động với Philipin. Nếu anh là thủ tướng, anh sẽ họp bàn với Tổng thống Philipin để bàn về kế hoạch đó ngay từ bây giờ, ngay từ lúc này. Vấn đề ở chỗ là, anh Lãng đéo phải thủ tướng. Chúng ta đành chờ hành động của TT Nguyễn Tấn Dũng và Bộ Chính Trị Việt Nam.

Giữ hòa bình tối đa, nhưng không ngại va chạm, chấp nhận đổ máu và chặn bước tiến của TQ bằng bất cứ cách nào. Nếu hôm nay TQ đặt thành công một giàn khoan nước sâu 3000 mét tại Trường Sa, trong năm sau sẽ có 10 giàn khoan Tàu Khựa mọc lên, và vùng biển tranh chấp biến thành biển Khựa trên thực tế. Chúng ta không thể lùi, dù phải trả bất cứ giá nào. Chiến thuật cần thực hiện, là phản đối công khai, vin vào luật biển, vào thỏa ước DOC để giành tính chính danh, lôi kéo ủng hộ quốc tế, dựa vào phương tiện, vào hỏa lực, vào sự kiên quyết để chặn hành động TQ trên thực địa, và dựa vào sự phá hoại ngầm, bằng đặc công nước, bằng lính cảm tử để phá hoại trên thực tế. Nếu dám làm và quyết tâm làm, Việt Nam sẽ thành công.

Đây cũng chính là thời kỳ, Việt Nam có cơ hội thúc đẩy các bước tiến mạnh mẽ hơn về phía Mỹ, Nhật, Ấn, EU... Chúng ta dễ được cảm thông, vì chúng ta là một nước nhỏ, đang bị o ép, và bản thân lợi ích các nước lớn trên thế giới cũng đang bị đe dọa. Và điều này, cũng cần trông chờ vào dũng khí, vào khả năng vượt qua chính mình của tầng lớp chóp bu cai trị Việt Nam.

Tựu trung lại, lúc nguy nan này, cũng chính là lúc Việt Nam có cơ hội để thực sự bước sang một con đường khác, một giai đoạn khác, một nấc thang khác. Lợi ích dân tộc ở bờ vực sinh tồn, cũng chính là lúc thức tỉnh lương tri ở bộ máy cai trị tha hóa của Việt Nam. Cũng chính là lúc chúng ta có cơ hội, để tiến hành các cải cách, sẽ đem lại khủng hoảng trong ngắn hạn, nhưng lợi ích dài hạn của dân tộc sẽ được tưởng thưởng.

Và chính các bạn, bọn con bò, những thanh niên Việt Nam ưu tú, chưa được khai sáng và có dân trí đủ mức để làm chủ cuộc sống của chính mình. Đây cũng chính là lúc các bạn cần thức tỉnh, xiết chặt tay nhau đoàn kết chống lại mối họa cận kề, xiết chặt tay nhau, tạo thành sức mạnh đồng thuận để có những cải cách ở Việt Nam, cả về chính trị, về chiến lược phát triển kinh tế và đường lối ngoại giao. Số phận của chúng ta, nằm trong chính bàn tay chúng ta chứ không nằm trong tay thằng đéo nào cả.

(Theo blog Lãng)

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa (2009)

Vợ chồng anh Nguyễn Văn Đen và chị Lê Thị Nghị ở thôn Bắc Hải (Hải Thượng) kể: Đúng vào đêm chung kết bóng đá AFF Cup, đội tuyển Việt Nam thắng đội tuyển Thái Lan, một lao động Trung Quốc say rượu vào quán nhà anh mua thuốc lá.

Do bất đồng ngôn ngữ nên người lao động Trung Quốc này đã đập bàn ghế, xé bao thuốc lá rồi quát tháo vợ anh. Vừa lúc đó anh Len về nhà, thấy thái độ ngang ngược của lao động Trung Quốc nên đã túm tay vị khách ngang ngược này đẩy ra khỏi quán. Bất ngờ anh Len bị vị khách này quay lại túm tóc đánh ngay tại quán của mình.
Sự việc trở nên phức tạp hơn khi anh Len và người nhà chống trả lại thì vị khách này chạy về khu tập trung kéo thêm 40 lao động là người Trung Quốc đến. Sau đó, gần 200 lao động Trung Quốc tay cầm ống nước, gậy gộc đánh xe tải từ công trường ra lấy đèn rọi vào nhà anh Len đập phá, đánh bị thương nhiều người trong gia đình anh. Thậm chí hàng xóm qua can ngăn cũng bị rượt đánh.


Người bị đánh trọng thương nặng nhất là anh Nguyễn Văn Đen, em trai của anh Len. Hôm đó, vừa đi xe ôm chở khách về, nghe tin nhà anh trai bị lao động Trung Quốc đập phá, anh Đen đi xe máy đến thì bị 5 đến 6 lao động Trung Quốc xông tới đánh tới tấp, đập nát xe, mũ bảo hiểm, khiến anh bị gãy tay, chân và phải khâu 16 mũi trên trán, đầu.

Trước đó, người dân xã Hải Thượng còn bàn tán về việc công nhân Trung Quốc vào nhà hàng Đồng Thúy, thôn Bắc Hải ôm tivi ngang nhiên bước ra trước sự bất lực của chủ quán. Ông Hoàng Văn Chung, Trưởng công an xã Hải Thượng cho biết: Chúng tôi chỉ nghe người dân kể lại sau khi ngồi uống cafe ở nhà hàng về, vì mất điện thoại, công nhân Trung Quốc quay lại quán tìm nhưng không thấy đâu nên đã ôm tivi của nhà hàng đi.

Tuỳ tiện bắt giữ người

Cũng vào tháng 11/2008, một đối tượng là dân địa phương trèo tường vào ăn trộm trong khu nhà ở của công nhân Trung Quốc thì bị bắt. Công nhân Trung Quốc không những không giao người cho công an địa phương mà còn tự ý trói đối tượng và treo lên qua đêm, sáng hôm sau mới chịu thả ra.

Vào ngày 24/4/2009, nhà thầu Trung Quốc bắt được 2 đối tượng là dân địa phương trộm cắp sắt. Khi công an xã Hải Thượng và công an đồn Nghi Sơn đến nhận người để điều tra thì họ không giao người mà đòi giữ lại xử lý riêng. Chưa hết, nhóm công nhân Trung Quốc còn tổ chức bao vây xe ô tô của đồn công an Nghi Sơn một tiếng đồng hồ rồi mới cho đi.

Mới đây nhất, vào ngày 26/4/2009, khoảng 30 công nhân Trung Quốc đã kéo đến ban điều hành nhà thầu Hà Nội đánh một công nhân của nhà thầu này và yêu cầu bồi thường do va chạm giữa 2 người với nhau trong quá trình thi công.

Việc công nhân Trung Quốc nhậu say, đập phá hàng quán ở khu dân cư sát nhà máy xi măng Nghi Sơn cũng không phải chuyện hiếm.

Bà Hiệp, một chủ quán ăn ở gần đó cho biết: Thời gian này còn đỡ, chứ trước đây lao động Trung Quốc vào ăn nhậu say không trả tiền rồi đập phá dọa nạt chủ quán xảy ra thường xuyên. Thậm chí, tối đến con gái trong làng còn không dám ra đường vì sợ lao động Trung Quốc say xỉn đuổi bắt dọa nạt.

Không bán hàng cho giặc!!!

Năm 1946 cuộc chiến Pháp Việt bùng nổ. Người Việt Nam khi ấy vừa trải qua 80 năm dài nô lệ với thói quen cúi đầu trước người Pháp, nhưng chỉ sau 1 năm, khi lòng tự hào dân tộc được khơi dậy, và đoàn kết dưới sự lãnh đạo của một lãnh tụ xứng tầm là ông Hồ, vẫn những người Việt Nam ấy, đã trở thành một loại người hoàn toàn khác.

Khi dấu hiệu của một cuộc chiến bắt đầu manh nha, người Việt lúc đó lập tức quay lưng với Pháp. Lịch sử vẫn còn ghi lại phong trào tẩy chay buôn bán với Pháp của người Việt: "Không bán hàng cho giặc, không giao lưu với giặc và không chỉ đường cho giặc".

Tiêu thổ kháng chiến, nhiều người Việt sau đó tự tay đập đi những ngôi nhà của mình, 9 năm sau, họ quay trở về sau trận Điện Biên Phủ. Một cuốn sách của Pháp xuất bản trong thời kỳ này, khi đề cập đến người Việt Nam, họ dùng cụm từ Annamit. Sau năm 1954, cuốn sách được tái bản, tác giả bỏ toàn bộ cụm từ Annamit và thay thế bằng cụm từ "người Việt Nam".

Nếu không có sự quyết tâm, không có cái tinh thần "Không bán hàng cho giặc" ấy, ắt hẳn, chúng ta đã không có một nước Việt Nam như hiện nay.

Những năm qua, lãnh thổ của chúng ta liên tục bị chiếm từng phần một. Năm 1974, Việt Nam mất trọn quần đảo Hoàng Sa. Năm 1988, hơn 80 thủy binh Việt Nam tử trận và chúng ta mất 9 đảo và đá tại Trường Sa. Từ 1979 đến 1988, chiến tranh liên miên tai biên giới phía Bắc với cái chết của hàng chục nghìn người. Thời kỳ được coi là hòa bình từ 1991 đến nay, máu của ngư dân Việt Nam vẫn liên tục rơi trên biển. Ít ai có thể quên sự kiện tàu hải quân Trung Quốc xả súng bắn chết 9 ngư dân Việt Nam năm 2005. Trên biển Đông đã có bao nhiêu vụ tàu thuyền Việt Nam bị tông chìm? bao nhiêu sinh mạng ngư dân Việt trôi dạt vĩnh viễn trên biển?

Hạm tàu Trung Quốc ngày một càn quét xa hơn xuống phía Nam, từng chút một, kế sinh nhai của người Việt ngày một cạn kiệt trên biển.

Giặc đối với người Việt, là ai???

Trong những ngày biển Đông đang nóng như một lò lửa, khi tàu thuyền của ngư dân Việt Nam vẫn liên tục bị chèn ép khi ra khơi. Mỗi chuyến mưu sinh, trở thành một chuyến đi có tính sinh tử, trong khi đó, trên đất liền, thương lái Trung Quốc vẫn càn quét như đi vào chỗ không người. Ngoài biển, Trung Quốc liên tục xâm lấn lãnh hải Việt Nam, và trên đất liền, người Trung Quốc đi lại tự do và mua bất cứ gì cần cho cái đất nước ấy.

Hậu quả có thể nhìn thấy ngay: Trong lúc Việt Nam đang lạm phát nặng nề, Trung Quốc mua vét hầu hết các mặt hàng thuộc nhóm sinh hoạt thiết yếu như thực phẩm, gạo, thịt ... nguồn hàng khan hiếm hơn, giá cả tiếp tục tăng, trong khi người Việt đang vật lộn với chỉ số lạm phát ngót 20%. Việt Nam sẽ chống lạm phát bằng cách nào? Trong lúc tàu thuyền đánh cá của Việt Nam ra khơi ngày một khó khăn, ngày một đánh đu với sinh mạng trước họng súng của Trung Quốc, thì thương nhân Trung Quốc mua vét hải sản trên đất liền. Báo chí Việt Nam loan tin, hơn 100 nhà máy chế biến hải sản phải ngừng hoạt động.

Tại sao những câu chuyện đó lại diễn ra quá dễ dàng? Cái tinh thần không bán hàng cho giặc hiện giờ ở đâu? Chúng ta giữ độc lập bằng cách nào? Khi mọi thứ dường như chỉ dừng ở việc hô khẩu hiệu.

Hàng hóa độc hại của Trung Quốc tràn lan tại Việt Nam, tiền thuế của dân chi ra để nuôi đủ thứ bộ máy công quyền, gồm thuế, hải quan, công an, quản lý thị trường, bộ công thương, bộ khoa học công nghệ ... và đủ thứ biên chế ăn lương khác, họ đang làm gì để bảo vệ người Việt Nam, để ngăn chặn dòng thương mại độc hại đang bóp chết người Việt về sức khỏe, bóp chết nền sản xuất Việt về giá cả?

Công an Việt Nam đang làm gì? Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh đang làm gì và bản thân chính người Việt Nam đang làm gì để thương nhân Trung Quốc đi lại tự do trên lãnh thổ Việt và mua bất cứ gì họ muốn như một công dân bản địa, khi thậm chí hành vi thương mại của họ đang làm xói mòn chính sách tài chính của Việt Nam?

Trong quá khứ, lúc nguy nan, người Việt tự biết bảo nhau "Không bán hàng cho giặc". Một lịch sử bất khuất sau đó được viết lên bởi chính thế hệ những người Việt vừa mới bước ra khỏi 80 năm nô lệ.

Ngày nay, những người dân Việt Nam của một nước độc lập về lý thuyết từ năm 1975, tính đến nay, đã có gần 40 năm độc lập, dễ dãi và bắt tay với giặc, phải chăng chúng ta đang đi ngược lại con đường mà người Việt từng đi?

(Theo blog Lãng)


Trung Quốc có thể dùng bao nhiêu lính đánh Việt Nam?

Khi mối nguy về một cuộc đụng độ quân sự Việt - Trung ngày một hiện hữu tỷ lệ thuận với sự hung hăng và dã tâm bành trướng Trung Hoa, đã đến lúc chúng ta ngồi đánh giá một cách khách quan, xem thực sự TQ có thể dùng bao nhiêu triệu lính tấn công Việt Nam, và xác suất thành công của hai phía ở mức nào.

Theo số liệu thống kê gần nhất, dân số TQ hiện có 1,33 tỷ người. Cơ cấu dân số đang già hóa với tốc độ ngày một cao. Số người trên 60 tuổi hiện chiếm xấp xỉ 17% dân số và ngày một tăng nhanh theo thời gian. Suất sinh do chính sách dân số ngặt nghèo suốt 3 thập niên, luôn dưới 1, và đang có xu hướng giảm. Số người dưới 17 tuổi của TQ cũng chỉ chiếm trên 16%. Dân số phân bố không đồng đều, khá thưa thớt ở lãnh thổ Tây Tạng (cũ) mà TQ xâm lược trái phép năm 58 và vùng Nội mông cướp đọat của người Mông Cổ. Ngược lại, tập trung đông cao độ tại các trung tâm kinh tế ven biển và phía Nam.

Đứng về mặt số học mà nói, nếu tổng động viên, TQ có thể huy động không dưới 20 triệu lính. Hiện tại quân đội TQ cũng đang có số lượng đứng đầu thế giới với hơn 2 triệu lính thường trực.
Đối mặt với họ, Việt Nam có một đội quân thường trực hơn 400 nghìn người, cộng với một lực lượng dự bị có thể tái tổ chức trong thời gian ngắn khoảng 3 triệu người.

Một cuộc chiến tổng lực nổ ra giữa hai bên, Việt Nam có trụ được trước biển người của Trung Quốc?

Nhìn vào lịch sử mà nói, trong các cuộc chiến tranh giữa hai bên, lần nào ưu thế số lượng cũng nghiêng lệch tuyệt đối về TQ. Theo sử liệu ghi nhận, thời Trần, Trung Quốc huy động 60 vạn quân xâm lược Việt Nam, đối địch lại, Hưng Đạo Vương có trong tay 20 vạn quân. Thời Minh, TQ mang sang 30 vạn quân, gồm cả các đạo quân tiếp viện đến sau, Lê Lợi vào lúc mạnh nhất có trong tay không quá 5 vạn lính. Thời nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị xua 20 vạn quân tiến chiếm Thăng Long, Nguyễn Huê mang 10 vạn tân binh mới tuyển ở Phú Xuân ra cự địch... Nếu nhìn xa hơn nữa vào các cuộc chiến thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, tương ứng với nhà Hán, Đường, Tống, Minh của TQ, tương quan quân sự trong các cuộc chiến cũng hoàn toàn giống thế. Tuy nhiên, phần thắng cuối cùng luôn thuộc về Việt Nam.

Gần như tuyệt đại bộ phận chiến cuộc, Việt Nam luôn dựa vào cuộc chiến nhân dân, dàn trải trường kỳ, phối hợp cường công chính diện khi thời cơ đến để giành phần thắng. Ngoại trừ duy nhất vị tướng tài ba lỗi lạc Quang Trung, khi tiến công thần tốc vỗ mặt đánh tan đạo quân xâm lược của Tôn Sĩ Nghị trong thời gian ngắn. Nhiều chuyên gia quân sự sau này nghiên cứu đều thấy sự giống nhau đáng ngạc nhiên về triết lý điều binh giữa Nguyễn Huệ và Napoleon, với lối tiến công quyết liệt, biết sử dụng hỏa lực một cách cực kỳ hợp lý và tài điều phối quân chuẩn xác trong các diễn biến chiến tranh.

Trở lại câu chuyện thực tại, sau 30 năm hòa bình, dân số Việt Nam tăng rất nhanh, gần như phủ kín mọi m2 lãnh thổ. Người Việt Nam cũng đã hòan thành chỉ tiêu phá rừng trước thời hạn dự kiến 30 năm. Mật độ các thành phố mới tăng rất nhanh, đặc biệt là vùng Bắc Bộ, dự kiến sẽ là chiến trường chính một khi chiến tranh Việt - Trung nổ ra. Có thể nói, trong thời hiện đại ngày nay, với lãnh thổ đã được văn minh hóa nhiều của Việt Nam, không còn ưu thế để ẩn núp ngụy trang như thời chiến tranh với người Mỹ và người Pháp.

Năng lực vũ khí và khí tài quy ước giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay có chênh lệch, nhưng không có khoảng cách về thế hệ. TQ có vũ khí hạt nhân, nhưng không thể sử dụng (Lý do anh Lãng đã phân tích ở một bài viết trước, dí dái gõ lại vào đây cho mỏi tay). Đối chiếu kinh nghiệm chiến cuộc thời 1979, Việt Nam sử dụng 20 vạn lính ô hợp, chủ yếu là dân quân, du kích, tự vệ và một số đơn vị chính quy, đã chặn đứng và đánh quỵ đạo quân xâm lược 60 vạn của Đặng Tiểu Bình trong cuộc chiến chớp nhoáng Việt -Trung lần một. Đây là một thành tích đáng nể, nhưng lúc đó Việt Nam đang sở hữu một thế hệ cả dân lẫn lính thiện chiến khi kinh qua 30 năm chiến tranh ác liệt, còn TQ lúc đó chỉ có một đám lính man rợ có thừa mà năng lực tác chiến thì gần bằng không. Hiện nay, sau một thời gian dài lính tráng hai bên đều không trải qua thực chiến, cái gọi là kinh nghiệm chỉ còn là quá khứ, và chúng ta phải căn cứ vào thực tế trước mắt để ước đoán.

Một cuộc chiến tổng lực xảy ra, Miền Bắc Việt Nam sẽ rơi vào hỗn loạn. Sẽ có một cuộc đại di tản về phía Nam, trong lúc các lực lượng chiến đấu lo phòng giữ lãnh thổ. Việt Nam có thể vận dụng cấp thời ít nhất 20 vạn quân, trong lúc Trung Quốc, với năng lực cơ động hiện có, cũng chỉ có thể đưa tối đa 60 vạn quân vào tham chiến bước một. Mấu chốt thành bại nằm ở chỗ Việt Nam có chặn TQ lại được ở vùng biên giới phía Bắc như năm 79 hay không, nếu thành công, TQ sẽ sa lầy và chắc chắn thất bại.

Đây là một điều khá khó ước đoán, trong những năm vừa qua, do giàu có hơn và quản trị tốt, lính Trung Quốc được huấn luyện rất chu đáo, nhất là những thành phần thuộc các đơn vị đặc biệt. Lính Việt Nam được gọi nhập ngũ đều đặn hàng năm, nhưng chắc chắn không huấn luyện tốt như lính Trung Quốc.

Tuy nhiên, xét về tố chất, chính sách một con trong suốt 30 năm qua cũng biến vài thế hệ lính Trung Quốc hiện nay thành loại lính diễu binh: Trông rất béo tốt, múa võ rất đẹp, huấn luyện đi rất đều, hò hét rất to, nhưng đều là loại con một công tử bột và không có khả năng chiến đấu, động chảy máu là ngất xỉu.

Ngược lại, lính Việt Nam phải đi bộ đội đa phần thuộc những gia đình nghèo, đông con, độ lì và chịu khó chịu khổ cũng không kém là mấy những thế hệ cha anh từng tham gia chiến tranh 30 năm trước. Đám lính này khi quăng vào thử lửa đích thực, càng đánh sẽ càng lỳ. Chưa kể tới tố chất người Việt hễ nghe nói đến đánh Tàu là đều sôi máu vằn mắt.

Trung Quốc có hỏa lực vượt trội xét về số tăng, pháo, oanh tạc cơ và tên lửa đất đối đất. Ngược lại, Việt Nam có ưu thế về địa lợi khi chiến đấu chỉ với mục đích phòng thủ và có kinh nghiệm chiến tranh nóng hổi hơn. Trên thực tế, chênh lệch hỏa lực hiện tại giữa Việt Nam và Trung Quốc còn chưa bằng một phần nhỏ chênh lệch hỏa lực giữa Việt Nam và Mỹ trước đây (Mỹ từng giộng xuống Việt Nam ngót 7 tr tấn bom, ném mãi, sau chán đành bỏ cuộc rút quân về nước).

Khi xảy ra một cuộc chiến tổng lực, Trung Quốc không thể huy động quá một lực lượng 15 triệu lính tiến đánh Việt Nam, trong đó giao chiến trực tiếp không quá 1 triệu do giới hạn chiều dài chiến trường. Trung Quốc rất dễ lâm vào nội loạn một khi số lính huy động cho chiến tranh quá lớn. Trong khi đó, Việt Nam có thể huy động không ít hơn 10 triệu lính tình nguyện khi xảy ra chiến tranh với Trung Quốc, bởi nhắc đến đánh nhau với Tàu Khựa, mọi bất đồng về ý thức hệ, giai cấp, đẳng cấp giữa người Việt đều gần như được xóa bỏ toàn bộ.

Việt Nam có lợi thế lớn vì chắc chắn sẽ nhận được nguồn viện trợ vũ khí vô điều kiện từ Ấn Độ, Mỹ, Nhật, Nga .. (Giống như TQ đang tuồn vũ khí vào Libi hiện nay cho Kadafi). Bọn này không yêu Việt Nam, nhưng rất thích thú nếu TQ sa lầy, và người Việt thì một khi đã phải đánh nhau với Tàu thì không còn lựa chọn nào khác, phải bằng mọi giá kiếm lấy mọi nguồn hỗ trợ.

Miền Bắc Việt Nam gồm Hà Nội nhiều khả năng sẽ bị tàn phá nặng nề, chiến tranh càng kéo dài, tổn tất càng lớn. Chiến lược của Việt Nam ở phía Bắc chỉ có thể thiên về phòng thủ, kéo TQ vào trận thế sa lầy. Ngược lại, Việt Nam có ưu thế rõ rệt để tấn công ở phía Nam. Đến đây bọn chã sẽ thắc mắc, Trung Quốc nào ở phía Nam mà đòi tấn công phía Nam?

Trung Quốc không ở phía Nam, nhưng miếng ăn miếng uống của nó đều từ phía Nam mà về. Eo Mallaca là một tử huyệt của TQ. Chẳng hạn để thay thế một chiếc tàu dầu tải trọng 100 nghìn tấn chạy qua eo Mallaca, Trung Quốc phải dùng khoảng 30000 xe téc chở dầu, mỗi xe chở được khoảng 3 tấn, chạy quãng đường gần 1000 km qua ngả Mianma, điều này đương nhiên là bất khả thi. Thậm chí kể cả TQ có xây xong hệ thống ống dẫn dầu qua ngả Mianma và phía Trung Á, cũng không thay thế được đường vận tải qua Mallaca, vì nguồn dầu chính của thế giới là Trung Đông, chỉ có thể về TQ qua Ấn Độ Dương và xuyên qua Mallaca.

Trong điều kiện chiến tranh tổng lực, Việt Nam cần dồn lực lượng không quân lui sâu về phía Nam, và đánh đắm mọi tàu vận tải của Trung Quốc lưu thông qua eo biển. Xác định đâu là tàu TQ chỉ là vấn đề mang tính kỹ thuật, còn kiếm một cái cớ để đánh tàu thương mại trong chiến tranh cũng chẳng khó khăn gì, khi chúng ta liệt dầu vào một loại nhiên liệu quốc phòng thiết yếu. Khi đó Việt Nam sẽ bị Trung Quốc gây thiệt hại nặng phía Bắc, nhưng ngược lại, người Việt có khả năng bóp nghẹt cổ Trung Quốc ở phía Nam. Trong vòng 6 tháng, cả hai phía sẽ phải xuống thang đàm phán, kèm theo sự nghi kỵ nặng nề, mà hậu quả lâu dài TQ cũng rất khó khắc phục vì hoạt động thương mại của nó sẽ không thể bình thường trong ít nhất 20 năm. Thời gian đó đủ dài để Ấn Độ trèo lên đầu TQ, và Mỹ đủ thời gian xác lập lại trật tự mới cho khu vực.

Nói chung nhìn ngược nhìn xuôi, tính kiểu gì anh cũng thấy chiến tranh tổng lực do đó đéo có thể xảy ra. Mặc dù vậy, anh phát rờn người khi cách đây hai hôm ngồi trong quán nhậu máy lạnh mát rượi gặm chân ba ba, mấy thằng bụng bự ngồi cạnh anh gãi bụng nói văng miệng: "Tàu Khựa sợ đéo gì, nó choảng nhau là các anh đi vác súng ngay". Anh Lãng thế này chẳng lẽ lại thua mấy thằng chúng nó? Khựa mà vào, anh tham chiến ngay, anh làm công tác tổ chức hậu cần, ngoại giao, lo vận động viện trợ của bạn bè quốc tế cho các chú yên tâm cầm súng bắn nhau, việc lớn đã có anh lo, đèo mẹ...

(Theo blog Lãng)

Duyệt binh Trung Quốc

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2011

Tru Tiên

"Tru Tiên" là tiểu thuyết giả tưởng thần tiên kiếm hiệp do ngòi bút sắc bén mới nổi là Tiêu Đỉnh trứ tác. Từ khi xuất hiện vào năm 2003, "Tru Tiên" đã gây một làn sóng lớn trong văn học Trung Quốc, cùng với "Phiêu Diểu Chi Lữ", "Tiểu Binh Truyền Kỳ" tề danh "Tam đại kỳ thư Internet", thậm chí được xếp vào hàng những tác phẩm kinh điển, sánh ngang với các tiểu thuyết của Kim Dung, Cổ Long, và Hoàn Châu Lâu Chủ.

Trong một siêu thị sách ở Thiên Tân, một nữ sinh trung học đã chỉ vào cuốn "Tru Tiên" mà nói với bạn: "Đời này tớ sống vì Tru Tiên". Từ đó có thể thấy được phần nào sức hấp dẫn của bộ tiểu thuyết này.

Trong tiểu thuyết giả tưởng "Tru Tiên", Tiêu Đỉnh đã sử dụng bút pháp tiểu thuyết võ hiệp truyền thống để dẫn dắt câu chuyện, đưa nội dung chính là tình cảm lồng vào trong một thế giới quỷ ma. Giữa máu đỏ và chiến tranh, tình yêu trong sáng tươi đẹp mỗi lần xuất hiện đều đem theo vầng hào quang rọi sáng cả bầu trời.
Thế gian ngày nay, chính đạo đang mạnh, tà ma tránh lui. Vùng đất trung nguyên sơn linh thủy tú, nhân khí cường thịnh, sản vật phong phú, là nơi chiếm cứ bền vững của các chính phái, trong đó đặc biệt có ba phái lớn đứng đầu, là Thanh Vân Môn, Thiên Âm Tự và Phần Hương Cốc.

Câu chuyện này, bắt đầu từ "Thanh Vân Môn". Trương Tiểu Phàm, nhân vật chính, là một thiếu niên bình thường, nhưng vận mệnh đã cợt đùa với hắn không chỉ một lần... Ý nghĩa duy nhất giúp hắn tồn tại là tình yêu, tình yêu là tấm phao cứu mệnh, là tín ngưỡng và tôn giáo duy nhất của đời hắn. Qua sự vật vã của Trương Tiểu Phàm, mới thấy sự trưởng thành của một người đàn ông gian nan biết bao. "Tru Tiên" thực chất là một bộ tiểu thuyết nói về sự trưởng thành, nói về tình cảm. Soi vào số phận Trương Tiểu Phàm, ta tìm thấy phần nào đó số phận riêng ta...

Trương Tiểu Phàm và những mối tình ...

Câu chuyện này bắt đầu từ "Thanh Vân Môn". Trương Tiểu Phàm, nhân vật chính, là một thiếu niên bình thường, nhưng vận mệnh đã cợt đùa với hắn không chỉ một lần... Ý nghĩa duy nhất giúp hắn tồn tại là tình yêu, tình yêu là tấm phao cứu mệnh, là tín ngưỡng và tôn giáo duy nhất của đời hắn. Tiểu Phàm có thể hy sinh bản thân chỉ để sư tỷ được vui. Quỷ Lệ có thể “giết cả thế gian” để thấy lại được nụ cười của Bích Dao. Trương Tiểu Phàm có thể bỏ lại tất cả để đến với Lục Tuyết Kỳ. Ba mối tình, mỗi mối tình lại có sự đặc sắc, lãng mạn riêng.

Mối tình với sư tỷ là mối tình đơn phương ngây thơ trong sáng của những người bạn thuở nhỏ. Một mối tình đầu mà lúc đó bản thân người trong cuộc còn chưa biết thế nào là tình. Sự nhẹ nhàng bâng khuâng, một chút mơ mộng, một chút tiếc nuối. Tất cả làm nên mối tình đầu mà mãi sau này mỗi lần nhớ lại Tiểu Phầm vẫn còn bất giác đỏ mặt, ánh mắt nhất thời thơ thẩn.Mặc dù chính Điền Linh Nhi đã xóa đi mối tình đầu đẹp đó.

Mối tình thứ 2 với Bích Dao.Yêu chỉ vì yêu. Bích Dao có thể bất chấp nguy hiểm chỉ để được ngồi bên cạnh Trương Tiểu Phàm. Đây có lẽ chính là cảnh đẹp nhất trong truyện. Tiểu Phàm lấy tay áo lau một thân trúc ngã mời Bích Dao ngồi. Bích Dao đã nói: “Từ nhỏ đến lớn, không biết có bao nhiêu người đối tốt với ta, tặng ta không biết bao nhiêu kì trân dị bảo, nhưng mà…. Kể cả đồ trân bảo của cả thiên hạ đang đặt trước mắt ta, cũng không thể so sánh được với cái tay áo này của ngươi vì ta mà lau cây trúc”. Hai người ngồi lặng im chỉ có rừng Hắc Tiết Trúc xào xạc. Cảnh đau thương bi tráng nhất có lẽ là cảnh Bích Dao lấy cả tinh huyết, lấy cả linh hồn ra bảo vệ Tiểu Phàm. Tru Tiên kiếm trận diệt thiên tuyệt địa nhưng cũng không bằng tình yêu mạnh liệt của người con gái bé nhỏ đó. Hai dòng huyết lệ chảy ra từ khóe mắt Tiểu Phàm. Từ lúc đó Tiểu Phàm đã chết, chỉ còn một Quỷ Lệ vô hồn. Mười năm phiêu bạt, hắn làm tất cả mọi chuyện, thậm chí đối nghịch với thiên hạ, hi sinh thân mình chỉ để đổi lấy một nụ cười của Bích Dao : “Vì nàng, ta tựa như đã chết, vậy còn gì để ta đắn đo, để ta so sánh? Ta giết ngươi để mà làm gì, nếu mà giết người có thể cứu nàng, thì có phải giết cả thiên hạ ta cũng giết rồi…”. Có lẽ hắn nghĩ rằng, chính mình là nguyên nhân gây ra cái chết của Bích Dao:  “Mười năm trước, ta thảy hai người bọn họ xuống đáy nham thạch, mười năm trước, trong Trư Tiên trận, ta tận mắt bất lực nhìn nàng rơi xuống…”

Tình yêu thứ 3 của Trương Tiểu Phàm với Lục Tuyết Kỳ. Tình yêu này bắt nguồn từ khi còn bé nhưng chỉ thực sự rực cháy, chỉ thực sự khắc khoải khi hai người đã trưởng thành. Một tình yêu day dứt, là cuộc đấu tranh khốc liệt giữa lý trí và con tim. Lý trí gào thét, vùi dập tình yêu không thương xót. Nhưng tình yêu trong con tim tựa như loài cỏ dại bề bỉ dai dẳng, day dứt. Chỉ nhưng lúc đêm khuya Lục Tuyết Kỳ một mình trên Vọng Nguyệt Lâu, hay Trương Tiểu Phàm cô đơn trong đêm tịch mịch, tình yêu đó, nỗi nhớ nhung đó lại trỗi dậy lại bùng cháy thiêu đốt con tim. Không biết bao nhiêu lần Lục Tuyết Kỳ đã múa kiếm một mình trên Vọng Nguyệt Lâu, không biết bao nhiêu lần Trương Tiểu Phàm thở dài trong đêm tối. Trận chiến trong Tử Trạch. Lục Tuyết Kỳ tựa tiên nữ giáng trần từ trên trời giữa vóng sáng của Thiên Gia, Quỷ Lệ từ dưới lên, giữa âm ảnh thê lương của Phệ Hồn đón đỡ. Ánh sáng giao nhau với bóng tối, chính đạo với tà đạo, giữa hai lý trí sắc lạnh với nhau nhưng trên hết tất cả vào phút cuối cùng con tim lại bùng lên cháy mãnh liệt. Xuyên quá băng giá trong mắt Lục Tuyết Kỳ, xuyên qua hần thù trong mắt Quỷ Lệ đỏ máu, hai tâm hồn trong khoảnh khẳng giao hòa với nhau. Khoảnh khắc thứ 2 thân ảnh tách ra chìm khuất trong màn mị hư vô tận của tử trạch.
...........................

(Chương cuối...)

Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, chỉ thoáng chốc đã bao nhiêu ngày tháng trôi  đi.
Lục Tuyết Kỳ tiếp nhiệm chức vị thủ tọa Tiểu Trúc phong, hôm ấy ngự kiếm bay  sang Đại Trúc Phong thăm Văn Mẫn. Văn Mẫn đã thành hôn với Tống Đại Nhân, còn  Tống Đại Nhân đã nắm chức thủ tọa Đại Trúc Phong.

Hai chị em lâu ngày không gặp, mừng rỡ quấn quít chuyện trò từ sáng tới tận trưa  trờ trưa trật. Khi Lục Tuyết Kỳ đứng dậy cáo từ, Tống Đại Nhân và Văn Mẫn cùng tiễn ra đến  ngoài Thủ Tĩnh Đường. Lục Tuyết Kỳ nhìn quanh, cười bảo Văn Mẫn: "Yên tĩnh nhỉ, chỗ này hợp với tính  tỷ đấy." Văn Mẫn gật đầu. Tống Đại Nhân cũng cười: "Thực ra Đại Trúc Phong vẫn náo  nhiệt lắm đấy chứ, chỉ hiềm dạo này bọn đệ tử đều xuống núi tu hành, chẳng có hơi  người nên mới quạnh quẽ thế thôi. Ờ còn Đại Hoàng nữa, con chó mà sư phụ ta nuôi từ nhỏ đó, ai ngờ mấy hôm nay cũng rong mất tăm, đến tiếng chó sủa cũng chẳng còn,  thực là kỳ quái!" Văn Mẫn lườm gã: "Chắc là ghét đồ ăn của huynh quá nên nó chạy!" Tống Đại Nhân cười xuề xòa. Lục Tuyết Kỳ nhìn hai vợ chồng êm ấm như vậy cũng  thấy được an ủi, bèn chuyện trò thêm đôi câu rồi cáo từ, rời khỏi Đại Trúc Phong.

Áo trắng phấp phới, nàng ngự kiếm đi, chẳng hiểu sao bỗng nhiên buồn bã, không  muốn quay về Tiểu Trúc phong ngay. Có lẽ cảnh vợ chồng đầm ấm ban nãy của sư tỷ đã khuấy động một điều gì đó trong lòng nàng, Lục Tuyết Kỳ thấy buồn rười rượi, tự dưng bay xuống chân núi, đến  Thảo Miếu thôn, nơi đã từng gắn liền với bao ác mộng, nay đã trở nên hoang phế. Cỏ dại rậm rịt, gió mát nhè nhẹ ào đến từng cơn, tất cả dường như chưa hề thay  đổi.

Nàng đứng lặng hồi lâu, thở dài, khuôn mặt thanh tú phảng phất nỗi ưu sầu. Rồi  nàng chậm rãi đi sâu vào bên trong.

Tường xiêu vách đổ chạy dọc hai bên lối đi. Nàng đứng im trong gió nhẹ, trong hơi  cỏ man mát, ủ rũ nhìn quang cảnh lặng lẽ xung quanh, mắt ngập nhu tình. Bỗng nhiên nàng giật thót, nghi hoặc dừng bước, nhìn chằm chằm vào sâu trong  vùng hoang phế trước mặt. Ở đó có một túp nhà gỗ mới dựng, trông rất đơn sơ, khói nhẹ liêu xiêu đang lượn  lên khỏi mái. Bên ngoài nhà là một mảnh áo xanh lục rách nát, đang lất phất theo gió. Một mùi thơm nức bay ra khỏi căn nhà gỗ.

Oẳng oẳng!
Chí chí!

Những âm thanh kỳ quái bỗng vang lên trong căn nhà ấy, ngay lập tức một cái  bóng vàng xẹt ra, đó là một con chó già to tướng lông vàng, bộ dạng hí hửng. Trên lưng con chó là một con khỉ lông xám có ba mắt, thật ít thấy, tay cầm một  khúc thịt sườn thơm phưng phức, tay kia túm cổ con chó, miệng la hét loạn xị, như thể thúc con chó phi nhanh hơn!

Rồi một người chạy vụt ra, mình vận bộ áo thô, mặt mày nhăn nhó, hắn hét tướng: "Con chó chết tiệt, con khỉ chết giẫm! Các ngươi lại ăn cắp thịt..."

Bỗng nhiên trông thấy Lục Tuyết Kỳ, hắn đứng phắt lại. Hai người đứng im không nhúc nhích, sững sờ nhìn nhau...

Bao nhiêu tháng năm, tình sầu nhân gian, thoắt cái hiển hiện trong ánh mắt họ,  rồi cả hai cùng bật cười.
Một cơn gió nhẹ lùa tới, tiếng chuông đinh đang vang lên dưới mái hiên. Tấm áo  xanh lục vẫn lất phất bay, như một nét cười. Tiếng chuông đinh đang, trôi theo gió, vang  vọng đi khắp nhân gian.